banner 728x90

Mối quan hệ giữa các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể

21/02/2025 Lượt xem: 2351

Sự tập trung vào di sản văn hóa vật thể trong luật pháp và chính sách thường phải trả giá cho những mối quan hệ liên kết và không thể tách rời của các yếu tố vật thể và phi vật thể. Chẳng hạn, đối với việc xây dựng một ngôi nhà và bảo vệ một hiện vật nghi lễ cụ thể thì dễ dàng hơn nhiều so với việc nhận biết và nhận diện một ý tưởng, hay một hệ thống tri thức. Với di sản văn hóa vật thể, một cách dễ dàng hơn để nhận biết cái mất đi, hay sẽ bị hư hỏng. Với di sản văn hóa phi vật thể, điều đó thật khó khăn vì khó đo lường, định lượng được. Vì vậy cần có những chiến lược quản lý đối với di sản văn hóa phi vật thể khác với di sản văn hóa vật thể.

Lễ hội tại chùa Hương

Đa số các di sản văn hóa vật thể có các yếu tố của di sản văn hóa phi vật thể trong hình thức liên kết và thể hiện ý nghĩa, chức năng và biểu tượng. Giống như vậy, nhiều di sản văn hóa phi vật thể chứa đựng các yếu tố vật thể, và trong một số trường hợp trong một số xã hội, quốc gia, việc phân biệt giữa vật thể và phi vật thể, hay văn hóa và “những tài sản khác” là không hoàn hảo, không phù hợp. Nói một cách ngắn gọn, không nhận biết các khía cạnh phi vật thể của di sản thì các tài sản vật thể hay di sản có ít ý nghĩa hoặc không có ý nghĩa và giá trị. Trong các di sản văn hóa vật thể như đền, chùa, đình, hiện vật, tranh dân gian… đều hàm chứa những biểu hiện của các giá trị văn hóa phi vật thể. Các không gian vật thể là nơi tổ chức các hoạt động lễ hội, sinh hoạt, trình diễn các loại hình nghệ thuật, trò chơi. Các hiện vật vật thể như bảo vật, văn bia, câu đối, hoành phi…đều chứa đựng những tri thức, kỹ năng của cộng đồng chủ nhân. Nói một cách khác, mỗi một di sản văn hóa đều có hai yếu tố vật thể và phi vật thể đan quyện vào nhau và lưu giữ, biểu hiện những giá trị tinh thần và tri thức vô cùng quý giá của cộng đồng.

Chùa Bà Tây Ninh

Về khía cạnh quản lý, có ít nhất hai lý do để quan tâm đến lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể. Lý do thứ nhất, xuất phát từ nguyên tắc về quyền con người, từ việc xem xét các khía cạnh đạo đức và các nhận thức chung. Các di sản văn hóa truyền thống kết nối với tinh thần và sự sống còn của cộng đồng và dân tộc cụ thể xứng đáng được sự quan tâm của cả hệ thống chính trị, của xã hội, toàn dân, cộng đồng. Lý do thứ hai, cần phải quan tâm đến quản lý di sản văn hóa phi vật thể, đó là sự tồn tại của các thể chế truyền thống và các luật tục. Các thể chế truyền thống, luật tục có tác động đặc biệt tới mối quan hệ phức tạp giữa các nhóm người, tổ chức phi quan phương, trong các điều luật quốc gia, chính sách.

Như vậy, quản lý di sản văn bao trùm lên cả di sản vật thể và phi vật thể và khó có thể tách rời hai yếu tố này trong một si sản. Hơn nữa, khi soạn thảo một điều luật mới, hay chỉnh sửa luật đang hiện hành cần phải quan tâm đến những thể chế truyền thống, luật tục, vai trò của cộng đồng, các tổ chức phi quan phương. Do vậy, cần lồng ghép các yếu tố phi vật thể và bảo vệ chúng trong các điều luật về văn hóa vật thể; và ngược lại, đồng thời có những điều khoản riêng cho các di sản văn hóa phi vật thể.

Ban Nghiên cứu VHTN phía Nam

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Tags:

Bài viết khác

Công ước về Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể

Theo Công ước 2003, bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể là các biện pháp có mục tiêu đảm bảo khả năng tồn tại của di sản văn hóa phi vật thể, bao gồm việc nhận diện, tư liệu hoá, nghiên cứu, bảo tồn, bảo vệ, phát huy, củng cố, chuyển giao, đặc biệt là thông qua hình thức giáo dục chính thức hoặc phi chính thức cũng như việc phục hồi các phương diện khác nhau của loại hình di sản này (Khoản 3, Điều 2).

Di sản văn hóa phi vật thể là gì?

Di sản văn hóa nói chung bao gồm các sản phẩm và các quá trình của văn hóa được sáng tạo, thực hành, bảo vệ và trao truyền qua các thế hệ. Các di sản được coi như là tài sản văn hóa bao gồm vật thể như nhà cửa, công trình kiến trúc, các tác phẩm nghệ thuật; phi vật thể như nhà cửa, công trình kiến trúc, các tác phẩm nghệ thuật; phi vật thể như bài hát, âm nhạc, ca kịch, kỹ năng và tri thức truyền thống, tri thức về nấu ăn, về thủ công mỹ nghệ, lễ hội, thực hành nghi lễ dân gian…

8 di sản thế giới tại Việt Nam

Tính đến nay, Việt Nam đã được UNESCO công nhận 18 di sản thế giới, trong đó có 2 di sản thiên nhiên (vịnh Hạ Long, vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng), 5 di sản văn hóa (khu di tích trung tâm Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội, thành nhà Hồ, quần thể di tích cố đô Huế, đô thị cổ Hội An, khu đền tháp Mỹ Sơn), 1 di sản hỗn hợp (quần thể danh thắng Tràng An) và các di sản văn hóa phi vật thể, di sản tư liệu.

Chợ Tết, nét văn hóa của người Việt

Những phiên chợ Tết đã trở thành văn hóa đặc trưng của người dân Việt Nam mỗi dịp Tết đến xuân về. Càng thấy ý nghĩa hơn đó là phiên chợ vào chiều 30 Tết bởi lẽ đây là thời điểm cuối cùng để mỗi gia đình sắm sửa chuẩn bị những vật dụng cần thiết cuối cùng chuẩn bị cho 3 ngày Tết. Những phiên chợ ấy luôn là nét văn hoá tinh thần vô giá của mỗi người dân đất Việt và tô thắm thêm nét đẹp trong văn hoá truyền thống của mỗi vùng quê Việt Nam.

Nét tinh túy trong ẩm thực Tết Việt

Tết Nguyên Đán truyền thống của người Việt là dịp lễ quan trọng nhất trong năm, được người Việt đón chào từ Tết Táo Quân (23 tháng chạp ÂL) và kéo dài đến ngày cúng Đất đai (Mồng 9 tháng Giêng). Giữa những ngày Tết có bao nhiêu lễ cúng khác, từ Tất niên (29 hoặc 30 tháng chạp âm lịch), lễ rước ông bà, cúng Giao thừa, đến lễ Khai hạ (mồng 7 tháng Giêng)…

Ẩm thực ngày Tết, nét văn hóa của người Việt

Nhìn từ bức tranh di sản văn hoá ẩm thực người Việt, chúng ta có thể thấy món ăn Việt có ba thời kỳ phá triển. Trong quần cư cùng các dân tộc anh em, người Việt đã có một bảng danh mục ẩm thực bản địa mang đậm dấu ấn vùng châu thổ sông Hồng.

Kinh thành Huế, công trình kiến trúc đồ sộ, quy mô

Nằm bên bờ sông Hương thơ mộng, di tích Kinh thành Huế, nằm ngay trung tâm thành phố Huế là một toà thành cổ, thuộc Quần thể di tích Cố đô Huế được UNESCO công nhận là Di sản Văn hoá Thế giới. Diện tích mặt bằng của Kinh thành Huế là 520ha. Trong suốt 143 năm kể từ năm 1803, đây là nơi đóng đô của triều đình nhà Nguyễn. Trải qua 2 thế kỷ với sự tàn phá của thời gian và chiến tranh, Kinh thành Huế vẫn giữ được diện mạo ban đầu.

Độc đáo điệu múa Vêr guông của dân tộc Khơ Mú

Điệu múa Vêr guông (Vêlr guông) là một phần nổi bật của lễ hội, là sản phẩm văn hóa tinh thần tâm linh có nguồn gốc cổ truyền từ xa xưa, tên gọi tuy mộc mạc, cổ xưa, nhưng ít dân tộc nào còn giữ được đúng với bản chất của người sống bằng nghề nương rẫy lâu đời. Lễ hội Mah grợ và điệu múa Vêr guông là di sản văn hóa dân gian đặc sắc, được dân tộc Khơ Mú gìn giữ lâu bền qua nhiều thế hệ.
Top