banner 728x90

Những nhạc cụ “thổi hồn” cho Di sản Văn hóa hát Then

19/03/2025 Lượt xem: 2358

Hát Then trong đời sống, văn hoá tín ngưỡng, tâm linh của đồng bào Tày, Nùng, Thái vùng cao phía Bắc được ví là "điệu hát thần tiên", điệu hát của “Trời”. Nghệ thuật diễn xướng dân gian này ẩn chứa và phô diễn những giá trị lịch sử, văn hóa lâu đời. Trong hát Then, đàn Tính và chùm Xóc Nhạc là hai loại nhạc cụ không thể thiếu. Hai loại nhạc cụ này vừa có chức năng giữ nhịp, đệm cho hát, vừa có khả năng diễn tấu linh hoạt, đặc biệt còn được sử dụng như  đạo cụ trong những điệu múa Then.

Đàn Tính (Tính Tẩu)

Tính Tẩu là nhạc cụ được sử dụng trong các sinh hoạt nghi lễ Then của người dân tộc Tày. Về nghĩa Tày cổ, từ “Tính” được người Tày đặt theo âm thanh tượng thanh tiếng đàn phát ra: tính, tình, tang. Còn “Tẩu” theo ngôn ngữ Tày Thái cổ là quả bầu, do đó Tính Tẩu theo cách hiểu đơn giản của người dân lao động thì âm thanh của nó được phát ra từ quả bầu, nhưng thực chất để tạo nên được những âm thanh là từ các sợi tơ. Khi người chơi đàn sử dụng ngón tay gảy những sợi tơ, làm cho chúng rung lên tạo thành sóng âm, tác động vào bầu đàn. Bầu đàn là nơi cộng hưởng các sóng âm đó và thoát ra ngoài tạo thành âm thanh. Vì vậy mà âm sắc của đàn Tính hơi đục, ấm áp, nghe gần như lời thủ thỉ tâm tình, nghe xa thấy bay bổng, ngọt ngào, pha trộn cùng chùm Xóc Nhạc tạo nên tổ hợp giàu sắc thái riêng, không lẫn với nhạc khí các tộc người khác.

Để làm ra được cây Tính Tẩu đòi hỏi rất nhiều yếu tố: biết đàn, biết hát, cảm thụ tốt các âm thanh vang ra từ cây đàn, cảm nhận được âm sắc của mỗi cây đàn, thật sự yêu quý cây đàn, hiểu quy trình làm đàn và đặc biệt phải có một đôi bàn tay khéo léo mới có thể làm được.

Ngoài việc sử dụng trong quá trình các Bà Then làm Then, đệm hát, đệm múa trong các chương trình văn nghệ; Tính Tẩu còn có thể độc tấu, hòa tấu cùng các nhạc cụ khác. Mặc dù Tính Tẩu không phải là một nhạc cụ hào nhoáng, không có nhiều tính năng như các nhạc cụ khác, nhưng một số kỹ thuật của Tính Tẩu như vuốt, láy, vê, búng… luôn tạo nên những đường nét giai điệu ngọt ngào, êm ái rất phù hợp với ngôn ngữ âm nhạc trong Then của người Tày.

Chùm Xóc Nhạc

Chùm Xóc Nhạc là nhạc cụ thuộc họ tự thân vang, phương pháp kích âm là rung hoặc lắc, các vòng tròn nhỏ cùng các quả nhạc (chuông nhỏ) tác động vào nhau phát ra âm thanh. Chùm Xóc Nhạc có nhiều tên gọi khác nhau theo mỗi địa phương. Ở Cao Bằng gọi là miạc, ở Lạng Sơn gọi là pây mạ, sáu mạ (nghĩa là nhạc ngựa), ở Hà Giang gọi là sáu má rính, ở Thái Nguyên gọi là Chùm xóc nhạc…và cũng tùy từng địa phương mà Chùm Xóc Nhạc có kích cỡ khác nhau.

Chùm Xóc Nhạc thường gồm có 2 quả xóc to, 3 quả xóc nhỏ bằng đồng, kèm vào đó là những vòng khuyên đồng có đường kính 15 đến 18 mm, được móc nối với nhau thành những chuỗi xích, vì vậy người ta căn cứ vào số chuỗi xích để bổ sung thêm các quả xóc cho phù hợp.

Tùy theo hình thức biểu diễn hoặc tính chất cuộc Then mà người xóc nhạc có thể vừa đeo ở chân vừa đàn tính vừa hát, hoặc cầm ở tay theo kiểu xỏ khuyên chùm xóc vào ngón tay giữa hoặc cầm xóc bằng 3 ngón tay chụm lại.

Chùm Xóc Nhạc còn được sử dụng riêng cho múa như múa chầu và cũng theo nhiều cách nhau như: xóc nhạc trong múa chèo thuyền, múa quạt, múa tán hoa, múa chầu lễ, múa chầu tướng đều có sự nhanh, chậm trong tiết tấu, tiết nhịp. Chùm Xóc Nhạc phần lớn góp phần vào việc thôi thúc, khơi dậy tình cảm con người trong nghi lễ Then. 

Nguồn: Trung tâm Thông tin du lịch

 

 

Tags:

Bài viết khác

Điều kiện di tích lịch sử văn hóa được xếp loại là di tích quốc gia

Theo quy định tại Điều 29 Luật Di sản văn hóa năm 2001, được sửa đổi bởi khoản 10 Điều 1 Luật Di sản văn hóa sửa đổi năm 2009, việc phân loại di tích lịch sử và văn hóa phải dựa trên những điều kiện về giá trị lịch sử và văn hóa. Các điều kiện này được quy định rõ ràng nhằm xác định và bảo vệ các di tích có giá trị quan trọng đối với quốc gia và dân tộc. Cụ thể, các di tích được phân loại dựa trên bốn điều kiện cơ bản:

Thủ tục xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia

Di tích lịch sử Việt Nam đã được phân thành ba cấp khác nhau, nhằm phản ánh giá trị lịch sử, văn hoá và khoa học của chúng. Đây là một dạng di sản văn hoá vật thể, bao gồm các công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình hoặc địa điểm đó.

Phân cấp, phân quyền trong quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa

Ở Việt Nam, vấn đề phân cấp là một nhiệm vụ chính trị quan trọng của quá trình cải cách nền hành chính nhà nước. Phân cấp quản lý có thể hiểu là vấn đề chuyển giao nhiệm vụ, quyền hạn rõ ràng giữa các cơ quan nhà nước, các bạn ngành Trung ương và địa phương. Theo Từ điển Luật học, phân cấp quản lý được định nghĩa là “Chuyển giao nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý nhà nước cấp trên cho cơ quan quản lý nhà nước cấp dưới thực hiện thường xuyên, lâu dài, ổn định trên cơ sở pháp luật…

Lễ Hội Hoa Ban: Nét đẹp văn hóa vùng núi Tây Bắc Việt Nam

Lễ hội Hoa Ban là một trong những sự kiện văn hóa đặc sắc của Việt Nam, phản ánh sự hòa quyện giữa thiên nhiên và con người, giữa các giá trị truyền thống và sự phát triển hiện đại. Với vẻ đẹp thuần khiết của hoa ban, cùng với những hoạt động văn hóa phong phú, lễ hội Hoa Ban hứa hẹn sẽ tiếp tục là một điểm đến hấp dẫn của du khách trong và ngoài nước.

Quản lý nhà nước về di sản văn hóa phi vật thể

Quản lý nhà nước với tính chất là một hoạt động quản lý xã hội. Quản lý nhà nước được thực hiện bởi tất cả các cơ quan nhà nước, là hoạt động chấp hành và điều hành có tính tổ chức chặt chẽ, được thực hiện trên cơ sở pháp luật, được bảo đảm thực hiện bởi hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước.

Mối quan hệ giữa các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể

Sự tập trung vào di sản văn hóa vật thể trong luật pháp và chính sách thường phải trả giá cho những mối quan hệ liên kết và không thể tách rời của các yếu tố vật thể và phi vật thể. Chẳng hạn, đối với việc xây dựng một ngôi nhà và bảo vệ một hiện vật nghi lễ cụ thể thì dễ dàng hơn nhiều so với việc nhận biết và nhận diện một ý tưởng, hay một hệ thống tri thức. Với di sản văn hóa vật thể, một cách dễ dàng hơn để nhận biết cái mất đi, hay sẽ bị hư hỏng.

Công ước về Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể

Theo Công ước 2003, bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể là các biện pháp có mục tiêu đảm bảo khả năng tồn tại của di sản văn hóa phi vật thể, bao gồm việc nhận diện, tư liệu hoá, nghiên cứu, bảo tồn, bảo vệ, phát huy, củng cố, chuyển giao, đặc biệt là thông qua hình thức giáo dục chính thức hoặc phi chính thức cũng như việc phục hồi các phương diện khác nhau của loại hình di sản này (Khoản 3, Điều 2).

Di sản văn hóa phi vật thể là gì?

Di sản văn hóa nói chung bao gồm các sản phẩm và các quá trình của văn hóa được sáng tạo, thực hành, bảo vệ và trao truyền qua các thế hệ. Các di sản được coi như là tài sản văn hóa bao gồm vật thể như nhà cửa, công trình kiến trúc, các tác phẩm nghệ thuật; phi vật thể như nhà cửa, công trình kiến trúc, các tác phẩm nghệ thuật; phi vật thể như bài hát, âm nhạc, ca kịch, kỹ năng và tri thức truyền thống, tri thức về nấu ăn, về thủ công mỹ nghệ, lễ hội, thực hành nghi lễ dân gian…
Top