banner 728x90

Những nhạc cụ “thổi hồn” cho Di sản Văn hóa hát Then

19/03/2025 Lượt xem: 2550

Hát Then trong đời sống, văn hoá tín ngưỡng, tâm linh của đồng bào Tày, Nùng, Thái vùng cao phía Bắc được ví là "điệu hát thần tiên", điệu hát của “Trời”. Nghệ thuật diễn xướng dân gian này ẩn chứa và phô diễn những giá trị lịch sử, văn hóa lâu đời. Trong hát Then, đàn Tính và chùm Xóc Nhạc là hai loại nhạc cụ không thể thiếu. Hai loại nhạc cụ này vừa có chức năng giữ nhịp, đệm cho hát, vừa có khả năng diễn tấu linh hoạt, đặc biệt còn được sử dụng như  đạo cụ trong những điệu múa Then.

Đàn Tính (Tính Tẩu)

Tính Tẩu là nhạc cụ được sử dụng trong các sinh hoạt nghi lễ Then của người dân tộc Tày. Về nghĩa Tày cổ, từ “Tính” được người Tày đặt theo âm thanh tượng thanh tiếng đàn phát ra: tính, tình, tang. Còn “Tẩu” theo ngôn ngữ Tày Thái cổ là quả bầu, do đó Tính Tẩu theo cách hiểu đơn giản của người dân lao động thì âm thanh của nó được phát ra từ quả bầu, nhưng thực chất để tạo nên được những âm thanh là từ các sợi tơ. Khi người chơi đàn sử dụng ngón tay gảy những sợi tơ, làm cho chúng rung lên tạo thành sóng âm, tác động vào bầu đàn. Bầu đàn là nơi cộng hưởng các sóng âm đó và thoát ra ngoài tạo thành âm thanh. Vì vậy mà âm sắc của đàn Tính hơi đục, ấm áp, nghe gần như lời thủ thỉ tâm tình, nghe xa thấy bay bổng, ngọt ngào, pha trộn cùng chùm Xóc Nhạc tạo nên tổ hợp giàu sắc thái riêng, không lẫn với nhạc khí các tộc người khác.

Để làm ra được cây Tính Tẩu đòi hỏi rất nhiều yếu tố: biết đàn, biết hát, cảm thụ tốt các âm thanh vang ra từ cây đàn, cảm nhận được âm sắc của mỗi cây đàn, thật sự yêu quý cây đàn, hiểu quy trình làm đàn và đặc biệt phải có một đôi bàn tay khéo léo mới có thể làm được.

Ngoài việc sử dụng trong quá trình các Bà Then làm Then, đệm hát, đệm múa trong các chương trình văn nghệ; Tính Tẩu còn có thể độc tấu, hòa tấu cùng các nhạc cụ khác. Mặc dù Tính Tẩu không phải là một nhạc cụ hào nhoáng, không có nhiều tính năng như các nhạc cụ khác, nhưng một số kỹ thuật của Tính Tẩu như vuốt, láy, vê, búng… luôn tạo nên những đường nét giai điệu ngọt ngào, êm ái rất phù hợp với ngôn ngữ âm nhạc trong Then của người Tày.

Chùm Xóc Nhạc

Chùm Xóc Nhạc là nhạc cụ thuộc họ tự thân vang, phương pháp kích âm là rung hoặc lắc, các vòng tròn nhỏ cùng các quả nhạc (chuông nhỏ) tác động vào nhau phát ra âm thanh. Chùm Xóc Nhạc có nhiều tên gọi khác nhau theo mỗi địa phương. Ở Cao Bằng gọi là miạc, ở Lạng Sơn gọi là pây mạ, sáu mạ (nghĩa là nhạc ngựa), ở Hà Giang gọi là sáu má rính, ở Thái Nguyên gọi là Chùm xóc nhạc…và cũng tùy từng địa phương mà Chùm Xóc Nhạc có kích cỡ khác nhau.

Chùm Xóc Nhạc thường gồm có 2 quả xóc to, 3 quả xóc nhỏ bằng đồng, kèm vào đó là những vòng khuyên đồng có đường kính 15 đến 18 mm, được móc nối với nhau thành những chuỗi xích, vì vậy người ta căn cứ vào số chuỗi xích để bổ sung thêm các quả xóc cho phù hợp.

Tùy theo hình thức biểu diễn hoặc tính chất cuộc Then mà người xóc nhạc có thể vừa đeo ở chân vừa đàn tính vừa hát, hoặc cầm ở tay theo kiểu xỏ khuyên chùm xóc vào ngón tay giữa hoặc cầm xóc bằng 3 ngón tay chụm lại.

Chùm Xóc Nhạc còn được sử dụng riêng cho múa như múa chầu và cũng theo nhiều cách nhau như: xóc nhạc trong múa chèo thuyền, múa quạt, múa tán hoa, múa chầu lễ, múa chầu tướng đều có sự nhanh, chậm trong tiết tấu, tiết nhịp. Chùm Xóc Nhạc phần lớn góp phần vào việc thôi thúc, khơi dậy tình cảm con người trong nghi lễ Then. 

Nguồn: Trung tâm Thông tin du lịch

 

 

Tags:

Bài viết khác

Người mở cõi – Vị khai quốc công thần đất Đồng Nai

Cách đây 327 năm, vào mùa xuân năm 1698, theo lệnh Chúa Nguyễn Phúc Chu, Chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh dẫn binh thuyền xuôi dòng sông Sài Gòn rồi ngược dòng Đồng Nai, đặt chân đến vùng Cù Lao Phố. Với tầm nhìn chiến lược và phẩm chất của một nhà kiến thiết, ông đã nhanh chóng thiết lập dinh Trấn Biên, ổn định trật tự, khai sinh hệ thống hành chính cho vùng đất hoang hóa rộng lớn, mở đầu cho quá trình xác lập chủ quyền của Đàng Trong trên phần đất Nam Bộ ngày nay.

Lăng Văn Sơn: Nét chạm của di sản trong đô thị hiện đại

Giữa nhịp phát triển sôi động của vùng Tây Hà Nội, Lăng Văn Sơn – di tích lịch sử quốc gia tại xã Tân Hội, huyện Đan Phượng – vẫn là biểu tượng văn hóa, điểm tựa tâm linh và niềm tự hào của người dân địa phương. Nơi đây không chỉ gắn với vị tướng Văn Dĩ Thành – người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống quân Minh vào đầu thế kỷ XV – mà còn lưu giữ những giá trị trường tồn của vùng đất Tổng Gối anh hùng.

Hình tượng Dê trong văn hóa thế giới và nghệ thuật truyền thống Việt Nam.

Hình tượng con dê là một biểu tượng phổ biến trong nhiều nền văn hóa trên thế giới, với ý nghĩa đa dạng từ tôn giáo, triết lý đến nghệ thuật và tín ngưỡng dân gian. Tại Việt Nam, con dê không chỉ là động vật quen thuộc trong đời sống nông nghiệp mà còn giữ vị trí biểu tượng trong nghệ thuật tạo hình và kiến trúc truyền thống.

Bảo tàng – Thư viện Bà Rịa - Vũng Tàu: Hành trình đưa di sản văn hoá đến gần hơn với du khách

Không chỉ lưu giữ ký ức, di sản văn hóa còn là nhịp cầu kết nối giữa quá khứ và hiện tại, giữa người dân và quê hương, giữa du khách và những câu chuyện lịch sử tưởng như đã lùi xa. Ở thành phố du lịch biển Vũng Tàu – hành trình ấy đang được tiếp nối sáng tạo và nhân văn qua nỗ lực không ngừng của Bảo tàng – Thư viện tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Ý nghĩa biểu tượng của tượng Phật Bà Quan Âm nghìn tay nghìn mắt - Di sản vô giá của dân tộc

Sự sùng bái Bồ tát Quan Âm có liên quan mật thiết đến sự phát triển của Tịnh độ tông và Mật tông, cụ thể là tư tưởng “Tịnh Mật hợp nhất”. Chính tại thời điểm giao thoa của hai tông này mà sức sáng tạo các hình tượng Bồ tát Quan Âm ngày càng trở nên phong phú, đa dạng.

Áo Nhật Bình: Một di sản văn hóa quý của Cố đô Huế

Áo Nhật bình vốn là loại triều phục dành cho bậc hậu, phi, cung tần và công chúa thời Nguyễn, nay đã trở thành loại trang phục phổ biến của phụ nữ Huế trong dịp hôn lễ và ngày càng được các bạn nữ trẻ Việt Nam yêu thích sử dụng khi đi ngoạn cảnh, check in…

Di tích Lịch sử - Văn hóa là gì? Tiêu chí, phân loại di tích lịch sử văn hóa

Di tích Lịch sử - Văn hóa là công trình xây dựng, địa điểm, hiện vật, di vật, đồ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm có liên quan đến những sự kiện lịch sử, quá trình phát triển văn hoá, xã hội một dân tộc, một đất nước. Di tích lịch sử - văn hoá phải có một trong các tiêu chí sau:

Điều kiện di tích lịch sử văn hóa được xếp loại là di tích quốc gia

Theo quy định tại Điều 29 Luật Di sản văn hóa năm 2001, được sửa đổi bởi khoản 10 Điều 1 Luật Di sản văn hóa sửa đổi năm 2009, việc phân loại di tích lịch sử và văn hóa phải dựa trên những điều kiện về giá trị lịch sử và văn hóa. Các điều kiện này được quy định rõ ràng nhằm xác định và bảo vệ các di tích có giá trị quan trọng đối với quốc gia và dân tộc. Cụ thể, các di tích được phân loại dựa trên bốn điều kiện cơ bản:
Top