banner 728x90

Những nhạc cụ “thổi hồn” cho Di sản Văn hóa hát Then

19/03/2025 Lượt xem: 2642

Hát Then trong đời sống, văn hoá tín ngưỡng, tâm linh của đồng bào Tày, Nùng, Thái vùng cao phía Bắc được ví là "điệu hát thần tiên", điệu hát của “Trời”. Nghệ thuật diễn xướng dân gian này ẩn chứa và phô diễn những giá trị lịch sử, văn hóa lâu đời. Trong hát Then, đàn Tính và chùm Xóc Nhạc là hai loại nhạc cụ không thể thiếu. Hai loại nhạc cụ này vừa có chức năng giữ nhịp, đệm cho hát, vừa có khả năng diễn tấu linh hoạt, đặc biệt còn được sử dụng như  đạo cụ trong những điệu múa Then.

Đàn Tính (Tính Tẩu)

Tính Tẩu là nhạc cụ được sử dụng trong các sinh hoạt nghi lễ Then của người dân tộc Tày. Về nghĩa Tày cổ, từ “Tính” được người Tày đặt theo âm thanh tượng thanh tiếng đàn phát ra: tính, tình, tang. Còn “Tẩu” theo ngôn ngữ Tày Thái cổ là quả bầu, do đó Tính Tẩu theo cách hiểu đơn giản của người dân lao động thì âm thanh của nó được phát ra từ quả bầu, nhưng thực chất để tạo nên được những âm thanh là từ các sợi tơ. Khi người chơi đàn sử dụng ngón tay gảy những sợi tơ, làm cho chúng rung lên tạo thành sóng âm, tác động vào bầu đàn. Bầu đàn là nơi cộng hưởng các sóng âm đó và thoát ra ngoài tạo thành âm thanh. Vì vậy mà âm sắc của đàn Tính hơi đục, ấm áp, nghe gần như lời thủ thỉ tâm tình, nghe xa thấy bay bổng, ngọt ngào, pha trộn cùng chùm Xóc Nhạc tạo nên tổ hợp giàu sắc thái riêng, không lẫn với nhạc khí các tộc người khác.

Để làm ra được cây Tính Tẩu đòi hỏi rất nhiều yếu tố: biết đàn, biết hát, cảm thụ tốt các âm thanh vang ra từ cây đàn, cảm nhận được âm sắc của mỗi cây đàn, thật sự yêu quý cây đàn, hiểu quy trình làm đàn và đặc biệt phải có một đôi bàn tay khéo léo mới có thể làm được.

Ngoài việc sử dụng trong quá trình các Bà Then làm Then, đệm hát, đệm múa trong các chương trình văn nghệ; Tính Tẩu còn có thể độc tấu, hòa tấu cùng các nhạc cụ khác. Mặc dù Tính Tẩu không phải là một nhạc cụ hào nhoáng, không có nhiều tính năng như các nhạc cụ khác, nhưng một số kỹ thuật của Tính Tẩu như vuốt, láy, vê, búng… luôn tạo nên những đường nét giai điệu ngọt ngào, êm ái rất phù hợp với ngôn ngữ âm nhạc trong Then của người Tày.

Chùm Xóc Nhạc

Chùm Xóc Nhạc là nhạc cụ thuộc họ tự thân vang, phương pháp kích âm là rung hoặc lắc, các vòng tròn nhỏ cùng các quả nhạc (chuông nhỏ) tác động vào nhau phát ra âm thanh. Chùm Xóc Nhạc có nhiều tên gọi khác nhau theo mỗi địa phương. Ở Cao Bằng gọi là miạc, ở Lạng Sơn gọi là pây mạ, sáu mạ (nghĩa là nhạc ngựa), ở Hà Giang gọi là sáu má rính, ở Thái Nguyên gọi là Chùm xóc nhạc…và cũng tùy từng địa phương mà Chùm Xóc Nhạc có kích cỡ khác nhau.

Chùm Xóc Nhạc thường gồm có 2 quả xóc to, 3 quả xóc nhỏ bằng đồng, kèm vào đó là những vòng khuyên đồng có đường kính 15 đến 18 mm, được móc nối với nhau thành những chuỗi xích, vì vậy người ta căn cứ vào số chuỗi xích để bổ sung thêm các quả xóc cho phù hợp.

Tùy theo hình thức biểu diễn hoặc tính chất cuộc Then mà người xóc nhạc có thể vừa đeo ở chân vừa đàn tính vừa hát, hoặc cầm ở tay theo kiểu xỏ khuyên chùm xóc vào ngón tay giữa hoặc cầm xóc bằng 3 ngón tay chụm lại.

Chùm Xóc Nhạc còn được sử dụng riêng cho múa như múa chầu và cũng theo nhiều cách nhau như: xóc nhạc trong múa chèo thuyền, múa quạt, múa tán hoa, múa chầu lễ, múa chầu tướng đều có sự nhanh, chậm trong tiết tấu, tiết nhịp. Chùm Xóc Nhạc phần lớn góp phần vào việc thôi thúc, khơi dậy tình cảm con người trong nghi lễ Then. 

Nguồn: Trung tâm Thông tin du lịch

 

 

Tags:

Bài viết khác

Ché – Hồn cốt của người dân đại ngàn Tây Nguyên

Giữa âm vang rộn rã của cồng chiêng – di sản văn hóa phi vật thể thế giới – những chiếc ché rượu cần lặng lẽ đứng đó, như linh hồn văn hóa của cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên.

Vẽ mắt cho thuyền – Hồn biển trong văn hóa ngư dân Việt

Trong dòng chảy lịch sử dân tộc, nghề chài lưới là một trong ba ngành nghề truyền thống đặc trưng của người Việt, bên cạnh nghề trồng lúa nước và nghề rừng. Cùng với đó, những phương tiện gắn liền với đời sống sông nước như thuyền, ghe, bè, thúng... không chỉ đóng vai trò là công cụ mưu sinh, mà còn là biểu tượng văn hóa, gắn liền với tín ngưỡng dân gian và phong tục truyền đời của cư dân miền biển.

Gìn giữ di sản văn hóa qua nghệ thuật múa dân gian Việt Nam

Trong kho tàng văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam, nghệ thuật múa dân gian chiếm một vị trí quan trọng, không chỉ là hình thức biểu đạt nghệ thuật mà còn là phương tiện chuyển tải những giá trị tinh thần, tín ngưỡng và bản sắc dân tộc. Từ miền Bắc đến miền Nam, mỗi vùng miền đều có những điệu múa đặc trưng, góp phần làm phong phú bức tranh văn hóa dân tộc Việt.

Khám phá khu di tích lịch sử văn hóa ngàn năm tuổi ở Bà Rịa – Vũng Tàu

Giữa miền đất Long Điền (Bà Rịa – Vũng Tàu) chan hòa nắng gió, khu di tích lịch sử – văn hóa Bàu Thành sừng sững như một nhân chứng lặng lẽ hàng nghìn năm lịch sử. Nơi đây, từng lớp dấu tích cổ xưa hòa quyện cùng nhịp sống hiện đại, tạo thành điểm đến độc đáo vừa gợi trí tò mò vừa làm dậy lên lòng tự hào về một vùng biên viễn oai hùng.

Lễ hội chùa Keo và 6 nghi thức độc đáo: Di sản văn hóa tâm linh Việt Nam

Nằm yên bình bên dòng sông Hồng thơ mộng, chùa Keo – tên chữ là Thần Quang Tự – tọa lạc tại xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Đây là một trong những ngôi chùa cổ kính, có giá trị lịch sử và nghệ thuật bậc nhất ở Việt Nam.

Làng nghề bánh tráng Trảng Bàng – Di sản văn hóa của người dân Nam Bộ

Nhắc đến Tây Ninh, người ta thường nghĩ ngay đến món bánh canh Trảng Bàng trứ danh. Thế nhưng, mảnh đất nắng gió này còn ẩn chứa một di sản văn hóa lâu đời: làng nghề bánh tráng phơi sương Trảng Bàng – nơi kết tinh tinh hoa ẩm thực và tâm hồn người dân Nam Bộ.

Người mở cõi – Vị khai quốc công thần đất Đồng Nai

Cách đây 327 năm, vào mùa xuân năm 1698, theo lệnh Chúa Nguyễn Phúc Chu, Chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh dẫn binh thuyền xuôi dòng sông Sài Gòn rồi ngược dòng Đồng Nai, đặt chân đến vùng Cù Lao Phố. Với tầm nhìn chiến lược và phẩm chất của một nhà kiến thiết, ông đã nhanh chóng thiết lập dinh Trấn Biên, ổn định trật tự, khai sinh hệ thống hành chính cho vùng đất hoang hóa rộng lớn, mở đầu cho quá trình xác lập chủ quyền của Đàng Trong trên phần đất Nam Bộ ngày nay.

Lăng Văn Sơn: Nét chạm của di sản trong đô thị hiện đại

Giữa nhịp phát triển sôi động của vùng Tây Hà Nội, Lăng Văn Sơn – di tích lịch sử quốc gia tại xã Tân Hội, huyện Đan Phượng – vẫn là biểu tượng văn hóa, điểm tựa tâm linh và niềm tự hào của người dân địa phương. Nơi đây không chỉ gắn với vị tướng Văn Dĩ Thành – người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống quân Minh vào đầu thế kỷ XV – mà còn lưu giữ những giá trị trường tồn của vùng đất Tổng Gối anh hùng.
Top