banner 728x90

Thủ tục xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia

12/03/2025 Lượt xem: 2408

Di tích lịch sử Việt Nam đã được phân thành ba cấp khác nhau, nhằm phản ánh giá trị lịch sử, văn hoá và khoa học của chúng. Đây là một dạng di sản văn hoá vật thể, bao gồm các công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình hoặc địa điểm đó.

Hiện nay, di tích lịch sử Việt Nam đã được phân thành ba cấp khác nhau, nhằm phản ánh giá trị lịch sử, văn hoá và khoa học của chúng. Đây là một dạng di sản văn hoá vật thể, bao gồm các công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình hoặc địa điểm đó. Theo quy định tại Điều 29 của Luật di sản văn hoá năm 2001 (được sửa đổi bởi khoản 10 của Điều 1 trong Luật di sản văn hoá năm 2009), di tích lịch sử Việt Nam được phân thành ba cấp khác nhau, dựa trên giá trị lịch sử, văn hoá và khoa học của chúng. Các cấp đó là:

- Di tích lịch sử cấp tỉnh: Đây là những di tích có giá trị tiêu biểu của địa phương. Các di tích ở cấp này thường có ý nghĩa quan trọng trong lịch sử và văn hoá của tỉnh, và được bảo tồn và quản lý bởi chính quyền địa phương.

- Di tích lịch sử cấp quốc gia: Đây là những di tích có giá trị tiêu biểu của quốc gia. Đây là những công trình, địa điểm hay di vật mang tính biểu tượng và có ý nghĩa quan trọng trong lịch sử và văn hoá của toàn quốc. Các di tích ở cấp này được quản lý và bảo tồn bởi các cơ quan chức năng cấp quốc gia.

- Di tích lịch sử cấp quốc gia đặc biệt: Đây là những di tích có giá trị đặc biệt tiêu biểu của quốc gia. Đây là những công trình, địa điểm hay di vật có ý nghĩa lịch sử, văn hoá và khoa học quan trọng, độc đáo và đặc sắc. Các di tích ở cấp này thường là những biểu tượng của quốc gia và được quản lý và bảo tồn đặc biệt chặt chẽ.

Qua việc phân cấp như vậy, chính quyền và các cơ quan chức năng có thể chú trọng hơn vào việc bảo tồn, quản lý và khai thác các di tích lịch sử một cách hợp lý và hiệu quả, nhằm bảo vệ và phát huy giá trị lịch sử, văn hoá và khoa học của di sản này.

\

Hồ Hoàn Kiếm, Hà Nội.

Để xem xét xem một công trình có đủ điều kiện để được công nhận là di tích lịch sử Việt Nam hay không, chúng ta có thể dựa vào các quy định của Luật Di sản văn hóa năm 2001, được sửa đổi bằng khoản 9 Điều 1 của Luật di sản văn hóa năm 2009.

Theo quy định của Điều 28 Luật Di sản văn hóa 2001, có một số tiêu chí mà một công trình lịch sử - văn hóa phải đáp ứng, bao gồm:

- Công trình xây dựng hoặc địa điểm gắn với sự kiện lịch sử, văn hóa tiêu biểu của quốc gia hoặc địa phương.

- Công trình xây dựng hoặc địa điểm gắn với thân thế và sự nghiệp của anh hùng dân tộc, danh nhân, nhân vật lịch sử có ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển của quốc gia hoặc địa phương trong các thời kỳ lịch sử.

- Địa điểm khảo cổ có giá trị tiêu biểu.

- Công trình kiến trúc, nghệ thuật, quần thể kiến trúc, tổng thể kiến trúc đô thị và địa điểm cư trú có giá trị tiêu biểu cho một hoặc nhiều giai đoạn phát triển kiến trúc, nghệ thuật.

Ngoài ra, để được công nhận là di tích danh lam thắng cảnh, công trình cần đáp ứng các tiêu chí sau:

- Cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với công trình kiến trúc có giá trị thẩm mỹ tiêu biểu.

- Khu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa lý, đa dạng sinh học, hệ sinh thái đặc thù hoặc khu vực thiên nhiên chứa đựng những dấu tích vật chất về các giai đoạn phát triển của trái đất.

Theo quy định trên, chỉ cần một trong các tiêu chí được nêu tại khoản 1 của Điều 28 Luật Di sản văn hóa 2001 được đáp ứng, công trình đó sẽ được công nhận là di tích lịch sử Việt Nam.

Tuy nhiên, sự kiện lịch sử gắn với công trình xây dựng đó phải là sự kiện tiêu biểu của quốc gia hoặc địa phương. Điều này đồng nghĩa với việc công trình đó đã có một ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển và diễn biến lịch sử của quốc gia hoặc địa phương đó trong quá khứ.

Di tích Hoàng Thành Thăng Long, Hà Nội

Thủ tục xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia theo quy định hiện nay được thực hiện dựa trên các điều khoản trong Luật Di sản văn hóa năm 2001 (được sửa đổi bởi Khoản 11 Điều 1 Luật di sản văn hóa sửa đổi năm 2009). Theo đó, quy định về thẩm quyền quyết định xếp hạng di tích như sau:

- Thẩm quyền quyết định xếp hạng di tích:
+ Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền quyết định xếp hạng di tích cấp tỉnh và cấp bằng xếp hạng di tích cấp tỉnh.
+ Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch có thẩm quyền quyết định xếp hạng di tích quốc gia và cấp bằng xếp hạng di tích quốc gia.
+ Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền quyết định xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt và cấp bằng xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt. Thủ tướng cũng quyết định việc đề nghị Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc xem xét đưa di tích tiêu biểu của Việt Nam vào Danh mục di sản thế giới.

 Trường hợp di tích đã được xếp hạng mà sau đó có đủ căn cứ xác định là không đủ tiêu chuẩn hoặc bị huỷ hoại không có khả năng phục hồi, người có thẩm quyền quyết định xếp hạng di tích có quyền ra quyết định huỷ bỏ xếp hạng đối với di tích đó.

Ngoài ra, Luật Di sản văn hóa năm 2001 (được sửa đổi bởi Khoản 12 Điều 1 Luật di sản văn hóa sửa đổi năm 2009) còn quy định về thủ tục xếp hạng di tích như sau:

- Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức kiểm kê di tích ở địa phương, lựa chọn và lập hồ sơ khoa học để quyết định xếp hạng di tích cấp tỉnh. Sau đó, hồ sơ được trình Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch để quyết định xếp hạng di tích quốc gia.

- Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chỉ đạo lập hồ sơ khoa học và trình Thủ tướng Chính phủ quyết định xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt. Hồ sơ cũng bao gồm di tích tiêu biểu của Việt Nam để trình Thủ tướng Chính phủ đề nghị Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc xem xét đưa vào Danh mục di sản thế giới.

Để trình Thủ tướng Chính phủ, hồ sơ phải có ý kiến thẩm định bằng văn bản của Hội đồng. Xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia là một quá trình phức tạp và phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm giá trị lịch sử, văn hóa và kiến trúc của di tích đó. Thông thường, quá trình xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia có thể bao gồm các bước sau:

- Nghiên cứu và đánh giá: Một nhóm chuyên gia và nhà nghiên cứu sẽ tiến hành nghiên cứu di tích để đánh giá giá trị lịch sử, văn hóa và kiến trúc của nó. Đánh giá này thường được dựa trên các tiêu chí và tiêu chuẩn đã được thiết lập bởi cơ quan quản lý di sản văn hóa của quốc gia.

- Xác định giá trị: Sau khi tiến hành đánh giá, nhóm chuyên gia sẽ xác định giá trị di tích dựa trên các yếu tố như tuổi tác, ý nghĩa lịch sử, tầm quan trọng văn hóa, và độ bảo tồn.

- Thủ tục xếp hạng: Dựa trên kết quả đánh giá và xác định giá trị, hồ sơ đề xuất xếp hạng di tích sẽ được chuẩn bị và nộp cho cơ quan quản lý di sản văn hóa của quốc gia. Quy trình xếp hạng có thể yêu cầu phê duyệt từ các cấp quản lý khác nhau, bao gồm chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, và thậm chí Thủ tướng Chính phủ (đối với di tích quốc gia đặc biệt).

Công bố và bảo vệ: Sau khi quyết định xếp hạng được đưa ra, di tích sẽ được công bố và bảo vệ theo quy định của pháp luật. Các biện pháp bảo vệ có thể bao gồm việc thiết lập khu vực bảo tồn, quy định về sửa chữa và phục dựng, và giám sát chặt chẽ để đảm bảo sự bảo tồn của di tích.

Quá trình xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia có thể khác nhau tùy theo quy định của từng quốc gia. Các quy trình và quy định chi tiết có thể được tìm thấy trong luật pháp liên quan đến di sản văn hóa của từng quốc gia.

 

 

Tags:

Bài viết khác

Những nhạc cụ “thổi hồn” cho Di sản Văn hóa hát Then

Hát Then trong đời sống, văn hoá tín ngưỡng, tâm linh của đồng bào Tày, Nùng, Thái vùng cao phía Bắc được ví là "điệu hát thần tiên", điệu hát của “Trời”. Nghệ thuật diễn xướng dân gian này ẩn chứa và phô diễn những giá trị lịch sử, văn hóa lâu đời. Trong hát Then, đàn Tính và chùm Xóc Nhạc là hai loại nhạc cụ không thể thiếu. Hai loại nhạc cụ này vừa có chức năng giữ nhịp, đệm cho hát, vừa có khả năng diễn tấu linh hoạt, đặc biệt còn được sử dụng như đạo cụ trong những điệu múa Then.

Điều kiện di tích lịch sử văn hóa được xếp loại là di tích quốc gia

Theo quy định tại Điều 29 Luật Di sản văn hóa năm 2001, được sửa đổi bởi khoản 10 Điều 1 Luật Di sản văn hóa sửa đổi năm 2009, việc phân loại di tích lịch sử và văn hóa phải dựa trên những điều kiện về giá trị lịch sử và văn hóa. Các điều kiện này được quy định rõ ràng nhằm xác định và bảo vệ các di tích có giá trị quan trọng đối với quốc gia và dân tộc. Cụ thể, các di tích được phân loại dựa trên bốn điều kiện cơ bản:

Phân cấp, phân quyền trong quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa

Ở Việt Nam, vấn đề phân cấp là một nhiệm vụ chính trị quan trọng của quá trình cải cách nền hành chính nhà nước. Phân cấp quản lý có thể hiểu là vấn đề chuyển giao nhiệm vụ, quyền hạn rõ ràng giữa các cơ quan nhà nước, các bạn ngành Trung ương và địa phương. Theo Từ điển Luật học, phân cấp quản lý được định nghĩa là “Chuyển giao nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý nhà nước cấp trên cho cơ quan quản lý nhà nước cấp dưới thực hiện thường xuyên, lâu dài, ổn định trên cơ sở pháp luật…

Lễ Hội Hoa Ban: Nét đẹp văn hóa vùng núi Tây Bắc Việt Nam

Lễ hội Hoa Ban là một trong những sự kiện văn hóa đặc sắc của Việt Nam, phản ánh sự hòa quyện giữa thiên nhiên và con người, giữa các giá trị truyền thống và sự phát triển hiện đại. Với vẻ đẹp thuần khiết của hoa ban, cùng với những hoạt động văn hóa phong phú, lễ hội Hoa Ban hứa hẹn sẽ tiếp tục là một điểm đến hấp dẫn của du khách trong và ngoài nước.

Quản lý nhà nước về di sản văn hóa phi vật thể

Quản lý nhà nước với tính chất là một hoạt động quản lý xã hội. Quản lý nhà nước được thực hiện bởi tất cả các cơ quan nhà nước, là hoạt động chấp hành và điều hành có tính tổ chức chặt chẽ, được thực hiện trên cơ sở pháp luật, được bảo đảm thực hiện bởi hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước.

Mối quan hệ giữa các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể

Sự tập trung vào di sản văn hóa vật thể trong luật pháp và chính sách thường phải trả giá cho những mối quan hệ liên kết và không thể tách rời của các yếu tố vật thể và phi vật thể. Chẳng hạn, đối với việc xây dựng một ngôi nhà và bảo vệ một hiện vật nghi lễ cụ thể thì dễ dàng hơn nhiều so với việc nhận biết và nhận diện một ý tưởng, hay một hệ thống tri thức. Với di sản văn hóa vật thể, một cách dễ dàng hơn để nhận biết cái mất đi, hay sẽ bị hư hỏng.

Công ước về Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể

Theo Công ước 2003, bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể là các biện pháp có mục tiêu đảm bảo khả năng tồn tại của di sản văn hóa phi vật thể, bao gồm việc nhận diện, tư liệu hoá, nghiên cứu, bảo tồn, bảo vệ, phát huy, củng cố, chuyển giao, đặc biệt là thông qua hình thức giáo dục chính thức hoặc phi chính thức cũng như việc phục hồi các phương diện khác nhau của loại hình di sản này (Khoản 3, Điều 2).

Di sản văn hóa phi vật thể là gì?

Di sản văn hóa nói chung bao gồm các sản phẩm và các quá trình của văn hóa được sáng tạo, thực hành, bảo vệ và trao truyền qua các thế hệ. Các di sản được coi như là tài sản văn hóa bao gồm vật thể như nhà cửa, công trình kiến trúc, các tác phẩm nghệ thuật; phi vật thể như nhà cửa, công trình kiến trúc, các tác phẩm nghệ thuật; phi vật thể như bài hát, âm nhạc, ca kịch, kỹ năng và tri thức truyền thống, tri thức về nấu ăn, về thủ công mỹ nghệ, lễ hội, thực hành nghi lễ dân gian…
Top