banner 728x90

Áo Nhật Bình: Một di sản văn hóa quý của Cố đô Huế

23/04/2025 Lượt xem: 2683

Áo Nhật bình vốn là loại triều phục dành cho bậc hậu, phi, cung tần và công chúa thời Nguyễn, nay đã trở thành loại trang phục phổ biến của phụ nữ Huế trong dịp hôn lễ và ngày càng được các bạn nữ trẻ Việt Nam yêu thích sử dụng khi đi ngoạn cảnh, check in…

Nam Phương Hoàng hậu trong trang phục áo Nhật Bình

Nguồn gốc của áo Nhật bình là loại áo Phi phong của triều Minh, được triều Nguyễn tiếp thu, cải cách thành kiểu áo Phi phong đối khâm với những nét riêng, rất đặc sắc. Áo có phần cổ thiết kế hình chữ nhật to bản, hai vạt được cố định bằng dây buộc, khi mặc vào thì phần trước ngực được ghép lại thành một hình chữ nhật nên mới có tên là áo Nhật bình. Khắp thân áo thường được trang trí lộng lẫy bằng các hoa văn dạng tròn dạng phụng ổ, loan ổ đan xen với các hình hoa lá, chữ Phúc, chữ Thọ... đính kim tuyến lấp lánh. Các hoa văn trang trí được sắp xếp dựa vào cấp bậc, vai vế của người mặc. Vì vậy, khi nhìn vào phần màu sắc, hoa văn của áo Nhật bình thì có thể xác định ngay được địa vị, danh phận của người mặc áo. Trừ Nhật bình dành cho bậc hoàng hậu ra, các kiểu áo Nhật bình khác ở tay áo đều có dải màu ngũ hành: lục, vàng, xanh, trắng, đỏ khiến loại trang phục này càng thêm rực rỡ. 

Từ năm Gia Long thứ 6 (1807), triều Nguyễn đã có quy định về trang phục áo Nhật bình dành cho hậu phi, công chúa, cung tần cả về màu sắc, chất liệu, hoa văn và các phụ kiện đi kèm (như kim ước, kim phượng, trâm phượng, trâm hoa).

Về màu sắc, Nhật bình của hoàng hậu dùng màu vàng chính sắc và màu cam; áo Nhật bình của công chúa dùng màu đỏ; bậc cung tần nhị giai dùng màu xích đào; cung tần tam giai dùng màu tím; cung tần tứ giai thì màu tím nhạt…

Về chất liệu thì áo Nhật bình của hoàng hậu may bằng sa sợi vàng quý giá, Nhật bình của công chúa, cung tần nhị giai, tam giai... may bằng sợi sa, nhuộm màu theo quy định.

Người mẫu Giang Thanh - Ảnh: Bảo Minh

Các loại phụ kiện đi kèm cũng phân theo thứ bậc: Hoàng hậu thì có 2 Cửu long kim ước phát, 1 Cửu phượng kim ước phát và 8 trâm phượng bằng vàng; công chúa thì có 1 Thất phượng kim ước phát và 12 trâm hoa; Cung tần nhị giai thì có 1 chiếc Ngũ phượng kim ước phát và 10 trâm hoa; cung tần tam giai thì có 1 Tam phượng kim ước phát và 8 trâm hoa; Cung tần tứ giai thì có 1 chiếc Phượng kim ước và 8 trâm cài…

Đầu thời Nguyễn, áo Nhật bình thường phối với bộ xiêm y màu tuyết bạch, đội mũ phượng tùy theo thứ bậc. Nhưng từ cuối thế kỷ XIX trở về sau, áo Nhật bình được phối với quần màu trắng, đội khăn vành to bản. Và hình thức này còn được bảo lưu đến ngày nay, đồng thời màu sắc, hoa văn trang trí của áo Nhật bình cũng phong phú, đa dạng hơn để phù hợp với nhu cầu đa dạng của cộng đồng.

Sau năm 1945, áo Nhật bình lan tỏa ra dân gian, được phụ nữ Huế rất yêu thích, thường chọn làm lễ phục trong đại sự hôn lễ của mình. Từ một loại trang phục chỉ dành cho nữ giới quý tộc chốn cung đình, áo Nhật bình đã trở thành một loại trang phục phổ thông, dành cho mọi người.

Dẫu vậy, áo Nhật bình vẫn dược xem là loại lễ phục cao cấp, chỉ được sử dụng trong các nghi lễ đặc biệt trang trọng. Áo Nhật bình truyền thống bao giờ cũng được may, thêu hết sức cầu kỳ, tỉ mỉ và hầu hết các công đoạn đều do nghệ nhân hay những người thợ tay có nghề cao thực hiện theo lối thủ công. Và cũng do điều này mà giá thành của những chiếc áo Nhật bình thường rất đắt. Trong thời Nguyễn, những chiếc áo Nhật bình của hoàng hậu, công chúa, phi tần đều do nghệ nhân cung đình may thêu vô cùng công phu, tỉ mỉ trong nhiều tháng trời và mức độ quý giá thì không hề thua kém các bộ đại lễ phục của vương tử, hoàng thân, quan lại cao cấp.

Những hình ảnh tư liệu cho thấy những bộ áo Nhật bình mà Đoan Huy Hoàng thái hậu (thân mẫu vua Bảo Đại), Hoàng hậu Nam phương (vợ vua Bảo Đại), Công chúa Mỹ Lương (con gái vua Dục Đức)… mặc đều là những bộ trang phục rất lộng lẫy và rất đẹp.

Áo Nhật bình là một di sản quý của thời Nguyễn, ngày càng được giới trẻ yêu thích, sử dụng vào các dịp lễ trang trọng không chỉ ở Huế mà còn lan tỏa ra toàn quốc và cả ở hải ngoại, nơi có người Việt sinh sống làm ăn.

Lễ cưới của Uyên Minh và Minh Luân, cô dâu trong trang phục áo Nhật Bình

Nữ du khách khi viếng thăm Huế, nếu là người yêu thích trang phục truyền thống của dân tộc thì nên chọn một bộ áo Nhật bình thật đẹp để check in cùng các danh thắng nổi tiếng của cố đô. Điều rất lạ là khi mặc bộ trang phục này, bạn dù chụp ảnh ở nơi nào cũng thấy đẹp, thấy hợp, dù là ở Hoàng cung, lăng tẩm, chùa chiền, phủ đệ, nhà vườn hay tại cung An Định, trường Quốc Học, cầu Trường Tiền, phố đi bộ, cầu gỗ Lim... Đó cũng là một bí mật mà bạn nên khám phá về miền đất sông Hương núi Ngự này.

YẾN CHI

Nguồn: Tạp chí VHNT số 487, tháng 1-2022

 

 

Tags:

Bài viết khác

Miếu Nổi Phù Châu – Di tích tâm linh độc đáo giữa lòng sông Vàm Thuật

Nằm biệt lập trên cù lao giữa sông Vàm Thuật, Miếu Nổi Phù Châu không chỉ là một địa điểm tín ngưỡng linh thiêng, mà còn là công trình kiến trúc mang đậm dấu ấn văn hóa Việt – Hoa, hiếm có giữa lòng đô thị Sài Gòn hiện đại.

Tượng Chúa Kitô Vua – Biểu tượng tâm linh và điểm đến nổi bật của Vũng Tàu

Nằm trên đỉnh Núi Nhỏ (còn gọi là núi Tao Phùng), phường Vũng Tàu, TP. Hồ Chí Minh, tượng Chúa Kitô Vua từ lâu đã trở thành một trong những công trình tôn giáo quy mô lớn và ấn tượng nhất Việt Nam. Không chỉ là điểm hành hương linh thiêng của giáo dân, nơi đây còn là biểu tượng du lịch nổi tiếng, thu hút hàng triệu lượt khách mỗi năm.

Ché – Hồn cốt của người dân đại ngàn Tây Nguyên

Giữa âm vang rộn rã của cồng chiêng – di sản văn hóa phi vật thể thế giới – những chiếc ché rượu cần lặng lẽ đứng đó, như linh hồn văn hóa của cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên.

Vẽ mắt cho thuyền – Hồn biển trong văn hóa ngư dân Việt

Trong dòng chảy lịch sử dân tộc, nghề chài lưới là một trong ba ngành nghề truyền thống đặc trưng của người Việt, bên cạnh nghề trồng lúa nước và nghề rừng. Cùng với đó, những phương tiện gắn liền với đời sống sông nước như thuyền, ghe, bè, thúng... không chỉ đóng vai trò là công cụ mưu sinh, mà còn là biểu tượng văn hóa, gắn liền với tín ngưỡng dân gian và phong tục truyền đời của cư dân miền biển.

Gìn giữ di sản văn hóa qua nghệ thuật múa dân gian Việt Nam

Trong kho tàng văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam, nghệ thuật múa dân gian chiếm một vị trí quan trọng, không chỉ là hình thức biểu đạt nghệ thuật mà còn là phương tiện chuyển tải những giá trị tinh thần, tín ngưỡng và bản sắc dân tộc. Từ miền Bắc đến miền Nam, mỗi vùng miền đều có những điệu múa đặc trưng, góp phần làm phong phú bức tranh văn hóa dân tộc Việt.

Khám phá khu di tích lịch sử văn hóa ngàn năm tuổi ở Bà Rịa – Vũng Tàu

Giữa miền đất Long Điền (Bà Rịa – Vũng Tàu) chan hòa nắng gió, khu di tích lịch sử – văn hóa Bàu Thành sừng sững như một nhân chứng lặng lẽ hàng nghìn năm lịch sử. Nơi đây, từng lớp dấu tích cổ xưa hòa quyện cùng nhịp sống hiện đại, tạo thành điểm đến độc đáo vừa gợi trí tò mò vừa làm dậy lên lòng tự hào về một vùng biên viễn oai hùng.

Lễ hội chùa Keo và 6 nghi thức độc đáo: Di sản văn hóa tâm linh Việt Nam

Nằm yên bình bên dòng sông Hồng thơ mộng, chùa Keo – tên chữ là Thần Quang Tự – tọa lạc tại xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Đây là một trong những ngôi chùa cổ kính, có giá trị lịch sử và nghệ thuật bậc nhất ở Việt Nam.

Làng nghề bánh tráng Trảng Bàng – Di sản văn hóa của người dân Nam Bộ

Nhắc đến Tây Ninh, người ta thường nghĩ ngay đến món bánh canh Trảng Bàng trứ danh. Thế nhưng, mảnh đất nắng gió này còn ẩn chứa một di sản văn hóa lâu đời: làng nghề bánh tráng phơi sương Trảng Bàng – nơi kết tinh tinh hoa ẩm thực và tâm hồn người dân Nam Bộ.
Top