banner 728x90

Chùa – nghè Cù Tu: Di tích gắn liền với Thái sư Trần Thủ Độ

02/11/2025 Lượt xem: 2400

Chùa Cù Tu, còn gọi là chùa Cảm Hóa Tự, tọa lạc tại xã Xuân Phúc, tỉnh Hưng Yên. Đây là nơi thờ Phật, đồng thời thờ Thái sư Thượng phụ Trần Thủ Độ và Pháp Vân – một trong bốn vị thần thuộc đạo Tứ Pháp.

Thái sư Trần Thủ Độ là người có công lớn với triều Trần, một tay gánh vác nhiều trọng trách, giúp vua Trần Thái Tông bình định giặc giã trong nước, chỉnh đốn triều chính, đưa đất nước Đại Việt thời bấy giờ trở nên cường thịnh. Ông từng chọn quê hương Cù Tu làm căn cứ, lập trại ấp để chống giặc. Khi về già, Thái sư xuống tóc tu hành tại đây. Ông cũng cho phép nhân dân địa phương xây chùa, cấp ruộng công cho binh sĩ và dân nghèo cày cấy, miễn thuế cho dân trong 12 năm nhằm giảm bớt khó khăn.

Tượng Pháp Vân.

Pháp Vân là một trong bốn vị thần của đạo Tứ Pháp (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện), tượng trưng cho bốn yếu tố thiên nhiên: mây, mưa, sấm, chớp. Nhân dân địa phương đã tạc tượng Thái sư Trần Thủ Độ đưa vào thờ tại chùa Cù Tu với mong muốn cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt.

Chùa Cù Tu được xây dựng từ xa xưa, trải qua thời gian đã nhiều lần trùng tu, tôn tạo. Hiện nay, chùa có kiến trúc kiểu chữ “Đinh”, mặt tiền hướng Tây Nam, gồm năm gian Tiền đường và ba gian Thượng điện.

Chùa hiện còn lưu giữ hơn 60 pho tượng Phật cổ. Đặc biệt, ở gian bên trái cuối Hậu cung vẫn còn bảo tồn bệ khám thờ cổ với đầy đủ đồ thờ như ngai, mũ, hia, bát hương, bài vị và ảnh của Thái sư Trần Thủ Độ. Kết cấu các hạng mục trong chùa vẫn còn tương đối đồng bộ, các mảng chạm khắc hoa văn mang đậm phong cách kiến trúc nghệ thuật thời Nguyễn.

Ngày 10/10/2025, Viện Nghiên cứu Văn hóa Tín ngưỡng Việt Nam đã tổ chức chuyến khảo sát, nghiên cứu và sưu tầm tư liệu tại Cụm Di tích lịch sử chùa – nghè Cù Tu (xã Xuân Phúc, tỉnh Hưng Yên).

Bằng Di tích Lịch sử – Văn hóa.

Tại đây, đoàn đã gặp đồng thầy bà Hoàng Thị Hương, người hiện trụ trì chùa Cù Tu. Theo giới thiệu của bà Hương và tư liệu kiểm chứng của PGS.TS Nguyễn Minh Tường, những năm cuối đời, Thái sư Trần Thủ Độ đã xuống tóc tu hành tại chùa Cù Tu. Ngôi chùa này gắn liền với Cụm di tích lịch sử – kiến trúc nghệ thuật chùa, nghè Cù Tu, đã được UBND tỉnh Hưng Yên ban hành Quyết định số 2731/QĐ-UBND ngày 22/12/2009 xếp hạng là Di tích Lịch sử – Văn hóa cấp tỉnh.

Theo PGS.TS Nguyễn Minh Tường, đây là căn cứ quan trọng giúp lý giải việc Thái sư Trần Thủ Độ được nhân dân thờ phụng tại nhiều địa điểm khác nhau như chùa Cù Tu, chùa Lim, chùa Cầu Đông và đình Thái Bình. Ông cho rằng: “Việc các ngôi chùa, vốn là nơi thờ Phật, nay thờ thêm Thái sư Trần Thủ Độ cho thấy ông từng có thời gian tu hành và có những đóng góp trực tiếp đối với Phật giáo Việt Nam.”

Tên gọi “Cảm Hóa Tự” của chùa mang ý nghĩa đặc biệt. “Cảm hóa” nghĩa là dùng tình cảm, hành động tốt đẹp để khiến người khác thay đổi theo hướng tích cực; còn “Tự” có nghĩa là bản thân hoặc ngôi chùa. Tên gọi này thể hiện tinh thần giác ngộ, tu hành của Thái sư Trần Thủ Độ – người đã từ bỏ quyền thế, xuống tóc quy y nơi cửa Phật khi về già.

Các pho tượng Phật cổ tại chùa Cù Tu.

Cách chùa Cù Tu khoảng 1 km là nghè Cù Tu, nơi tôn thờ hai anh em ruột là Ngòi Sái Đại Vương và Biến Lương Công chúa. Theo sử sách và truyền thuyết địa phương, hai vị đã có công cùng Mai Thúc Loan và Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng đứng lên khởi nghĩa chống lại quân xâm lược nhà Đường phương Bắc, giành thắng lợi, đem lại bình yên cho dân tộc.

Nghè Cù Tu được khởi dựng từ rất sớm, trải qua biến thiên thời gian đã nhiều lần được trùng tu, tôn tạo. Hiện nay, nghè có kiến trúc kiểu chữ Đinh, gồm ba gian Tiền tế và hai gian Hậu cung. Các bộ vì được làm theo kiểu kèo cầu quá giang đơn giản nhưng chắc chắn.

Tại cụm di tích vẫn còn lưu giữ được hai đạo sắc phong thời vua Khải Định (năm 1924), cùng bia đá, câu đối và đại tự cổ, phản ánh giá trị lịch sử – văn hóa quý báu của ngôi nghè và vùng đất Cù Tu.

Hằng năm, tại cụm di tích chùa – nghè Cù Tu (xã Xuân Phúc, tỉnh Hưng Yên) diễn ra lễ hội truyền thống từ ngày mồng 9 đến ngày 12 tháng 3 âm lịch, nhằm tưởng nhớ và tri ân công đức của các vị thần được thờ phụng tại đây.

Mở đầu lễ hội là nghi thức rước Đức Thánh Ông và Đức Thánh Bà từ nghè về đình Cù Tu, tiếp đó là lễ dâng hương, tế lễ và nhiều hoạt động văn nghệ, trò chơi dân gian đặc sắc, thu hút đông đảo người dân và du khách tham gia.

Ngoài ra, vào ngày giỗ của Thái sư Trần Thủ Độ (24 tháng Giêng âm lịch), nhân dân địa phương cũng tổ chức nghi lễ tưởng niệm long trọng. Trong khuôn khổ lễ hội còn diễn ra phần thi giã bánh dày – một nét văn hóa truyền thống mang ý nghĩa cầu cho mùa màng bội thu, cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Lễ hội chùa – nghè Cù Tu không chỉ là dịp để nhân dân bày tỏ lòng thành kính với các bậc tiền nhân, mà còn góp phần giáo dục truyền thống uống nước nhớ nguồn, gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc cho các thế hệ trẻ.

Với cương vị là một vị quan đầu triều, Thái sư Trần Thủ Độ đã nêu tấm gương sáng về tinh thần trách nhiệm và lòng trung thành tuyệt đối với quốc gia, dân tộc. Trước thế mạnh của quân Nguyên – Mông, khi vua tỏ ra lo lắng, ông đã quả quyết đáp: “Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo.” Câu nói ấy thể hiện bản lĩnh kiên cường, niềm tin sắt đá và tinh thần tận trung báo quốc của một bậc khai quốc công thần.

Có lẽ cũng chính nhờ nền tảng mà Trần Thủ Độ gây dựng, các hoàng đế triều Trần – từ Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông đến Trần Nhân Tông – đều trở thành những vị vua – triết gia, thi sĩ lỗi lạc, đứng ở đỉnh cao của văn hóa Đại Việt. Những vị minh quân uyên bác ấy đều mang trong lòng sự biết ơn sâu sắc với Trần Thủ Độ – người tuy “không biết chữ” nhưng lại biết cách dựng nên một vương triều hùng mạnh bậc nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam.

Thái sư Trần Thủ Độ không chỉ là người mưu lược trong việc dựng nước và giữ nước, mà còn là nhà tổ chức có tầm nhìn, góp phần quan trọng trong việc phát triển kinh tế đất nước.

Tư liệu lịch sử về những cải cách kinh tế dưới triều Trần – khi Trần Thủ Độ còn sống – tuy không nhiều, nhưng qua các ghi chép còn lại có thể nhận thấy rằng, khi trực tiếp nắm quyền điều hành đất nước, ông cùng triều đình nhà Trần đã sớm nhận ra những hạn chế, yếu kém trong nền kinh tế Đại Việt dưới thời Lý Huệ Tông.

Từ thực tiễn đó, Trần Thủ Độ đã đề xuất chủ trương chuyển một phần ruộng đất công hữu sang tư hữu, nhằm khuyến khích sản xuất, tạo động lực phát triển kinh tế. Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” ghi chép: “Tháng Sáu, bán ruộng công, mỗi diện 5 quan tiền (một diện tương đương với một mẫu ruộng ngày nay), cho phép nhân dân mua làm ruộng tư.” Chủ trương này cho thấy tầm nhìn cải cách sớm và tư duy kinh tế thực tế của Trần Thủ Độ – một vị đại thần không chỉ am hiểu chính trị, quân sự mà còn quan tâm sâu sắc đến đời sống và sinh kế của nhân dân.

Không chỉ chú trọng phát triển kinh tế, Thái sư Trần Thủ Độ còn quan tâm đặc biệt đến việc phát triển Nho học và giáo dục nhân tài. Theo sử sách, ông đã tâu vua cho xây dựng Quốc Tử Giám, đẩy mạnh các kỳ thi cử nhằm tuyển chọn hiền tài phục vụ đất nước.

Các pho tượng Phật cổ và các đồ thờ cổ tại chùa Cù Tu.

Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: 

“Tháng Hai năm 1232, mở khoa thi Thái học sinh. Đỗ đệ nhất giáp có Trương Hanh, Lưu Diễm; đệ nhị giáp có Đặng Diễn, Trịnh Phẫu; đệ tam giáp có Trần Chu Phổ.” 

“Năm Đinh Mùi (1247), mùa xuân tháng Hai, mở khoa thi chọn học trò. Nguyễn Hiền đỗ Trạng nguyên, Lê Văn Hưu đỗ Bảng nhãn, Đặng Ma La đỗ Thám hoa, lấy đỗ Thái học sinh 48 người.”

Chính nhờ chủ trương coi trọng “hiền tài là nguyên khí quốc gia”, triều Trần đã xuất hiện nhiều danh nhân kiệt xuất, góp phần to lớn vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong ba cuộc kháng chiến chống Nguyên – Mông, các nhân sĩ và tướng lĩnh trẻ tuổi tài năng như Nguyễn Hiền, Đặng Ma La, Trương Hán Siêu, Phạm Ngũ Lão, Trần Nhật Duật, Trần Quang Khải đã làm rạng danh lịch sử dân tộc.

Không dừng ở đó, Trần Thủ Độ còn là người đặt nền tảng cho pháp luật và bộ máy hành chính triều Trần. Ông đề ra khung bậc, thể thức của luật hình, tạo tiền đề cho Bộ Quốc triều hình luật ra đời – một bộ luật tiêu biểu của thời phong kiến Việt Nam.

Để tăng cường quản lý nhà nước, ông chia cả nước thành 12 lộ, mỗi lộ đặt chức Chánh phủ xứ; đồng thời duyệt định hộ khẩu, đặt ra các chức Đại tư xã, xã chính, xã quan để quản lý dân cư.

Không chỉ là người đề ra tư tưởng pháp trị, Trần Thủ Độ còn là tấm gương mẫu mực về sự liêm chính, nghiêm minh trong thi hành pháp luật. Với ông, pháp luật không phân biệt giàu nghèo, sang hèn; bất cứ ai, dù ở địa vị nào, nếu vi phạm đều bị xử lý theo đúng quốc luật. Mức xử phạt nặng hay nhẹ tùy thuộc vào hành vi phạm tội, thể hiện tinh thần công bằng và chính trực trong trị quốc.

Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Thủ Độ tuy không có học vấn nhưng tài lược hơn người, làm quan triều Lý được mọi người suy tôn. Thái Tôn lấy được thiên hạ đều là mưu sức của Trần Thủ Độ cả, cho nên nhà nước phải nhờ cậy” (tr. 478). Chính vì tài năng và quyền lực của ông, đã có người lo ngại, khóc với vua: “Bệ hạ trẻ thơ mà Thủ Độ quyền hơn cả vua, đối với xã tắc sẽ ra sao?”. Vua lập tức đến gặp Trần Thủ Độ, mang theo cả người dám hặc tội ông. Thế nhưng, Trần Thủ Độ không hề giận dữ mà còn thưởng tiền lụa cho kẻ dám hặc tội và công nhận lời nói đó là đúng.

Tài năng của ông còn được các sử gia ghi lại qua nhiều sự kiện khác. Khi vua Trần Thái Tông muốn bổ nhiệm An Quốc – anh của Thủ Độ – làm tướng, Thủ Độ can: “An Quốc là anh thần, nếu là người hiền thì thần xin nghỉ việc, nếu cho là thần hiền hơn An Quốc thì không nên cử An Quốc”. Vua bèn thôi. Quả thực, Trần Thủ Độ đã nhìn thấu tính cách hai mặt của anh trai mình: sau này, An Quốc cùng vợ (tương truyền là một công chúa nhà Lý) nổi loạn chống lại nhà Trần tại Quắc Hương, Vụ Bản, Nam Định. Cuộc nổi loạn nhanh chóng bị Trần Thủ Độ dẹp tan. Sử sách khẳng định ông là người có bản lĩnh chính trị và cá tính đặc biệt: làm việc gì cũng dứt khoát, xử lý quyết đoán, ít để người khác sai khiến.

Trần Thủ Độ cũng là người sáng suốt trong việc trọng dụng nhân tài. Ông biết rõ An Sinh Vương Trần Liễu có ý định làm phản, thậm chí đã định chém vị này, nhưng đồng thời vẫn ủng hộ vua Trần Thái Tông tin dùng Trần Quốc Tuấn. Trong kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ nhất, Trần Quốc Tuấn được giao giữ biên ải; hai lần kháng chiến sau, ông giữ chức tổng chỉ huy quân đội. Điều này chứng tỏ Trần Thủ Độ không bị định kiến chi phối, đánh giá công bằng và công minh.

Cuộc sống đời thường của Trần Thủ Độ cũng phản ánh sự công minh và nguyên tắc của ông. Khi vợ ông – Linh Từ quốc mẫu – đi qua thềm cấm bị quân hiệu ngăn lại, bà về khóc và kể lại với Thủ Độ. Thái sư lập tức cho gọi quân hiệu đến, nhưng thay vì trách mắng, ông khen: “Ngươi ở chức thấp mà biết giữ phép, ta còn trách gì nữa” và thưởng vàng lụa cho người này.

Một câu chuyện khác liên quan đến việc bổ nhiệm một chức nhỏ ở địa phương (câu đương) cho người mà Linh Từ xin. Trần Thủ Độ ghi rõ họ tên, quê quán người này, nhưng khi xét duyệt, ông yêu cầu người này phân biệt với những người cùng chức bằng cách chặt một ngón chân – nếu không, không được hưởng đặc quyền. Người đó van xin mãi mới được tha. Kể từ đó, không ai dám nhờ vả, lo lót Thủ Độ qua vợ ông.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nhận xét: “Thủ Độ tuy làm tể tướng mà phàm công việc không việc gì là không để ý. Vì thế mà giúp nên nghiệp vương”. Những câu chuyện trên cho thấy, Trần Thủ Độ không chỉ là người tài năng, có bản lĩnh chính trị, mà còn là tấm gương về nguyên tắc, công minh trong xử lý công việc.

Bệ, khám chụp kính (có đủ ngai, mũ, hia, bát hương, bài vị, di ảnh… của Thái sư Trần Thủ Độ) tại chùa Cù Tu.

Năm 1905, tại thôn Thái Bình (xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, Hà Nội) – nơi sử sách ghi lại rằng Trần Thủ Độ từng dẹp loạn họ Lý – nhân dân địa phương đã dựng đình Thái Bình để thờ Lý Chiêu Hoàng ở vị trí trung tâm, hai bên thờ Trần Cảnh và Trần Thủ Độ.

Theo ông Ngô Vũ Hải Hằng, cán bộ Viện Sử học Việt Nam: “Dưới con mắt của nhân dân, Trần Thủ Độ hoàn toàn khác với những nhận định của các sử quan phong kiến. Nhân dân biết ơn ông vì đã cứu đất nước thoát khỏi cảnh loạn lạc, và nhờ tài thao lược, khí phách hiên ngang cùng tinh thần kiên quyết của ông, Đại Việt mới thoát khỏi ách nô lệ ở nửa sau thế kỷ 13.”

Hiện nay, tại chùa Cầu Đông (số 38B phố Hàng Đường, Hà Nội) vẫn còn thờ tượng Thái sư Trần Thủ Độ và Linh Từ Quốc mẫu Trần Thị Dung, gắn liền với câu ca dao cổ:

“Cầu Đông vẳng tiếng chuông chùa,
Trăng soi giá nến, gió lùa khói hương.
Mặt ngoài có phố Hàng Đường,
Hàng Mây, Hàng Mã, Hàng Buồm, Hàng Thùng.
Tượng Phật Thủ Độ, Kim Dung,
Uy nghi lẫm liệt, oai phong Ta Bà…”

Những câu chuyện và di tích ấy minh chứng rằng, trong tâm thức dân gian, Trần Thủ Độ không chỉ là vị Thái sư quyền uy mà còn là biểu tượng của đức độ, bản lĩnh và tinh thần vì nước, vì dân.

Ths. Phùng Quang Trung

Chủ tịch Hội đồng Thẩm định – Viện Nghiên cứu Văn hóa tín ngưỡng Việt Nam
Nguyên Trưởng Phòng Văn học, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Tags:

Bài viết khác

Thành cổ Diên Khánh - Chứng nhân lịch sử của thời mở cõi phương Nam

Cách trung tâm thành phố Nha Trang khoảng 10 km về phía tây, thành cổ Diên Khánh (thuộc xã Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa) vẫn lặng lẽ đứng đó như một chứng nhân của thời mở cõi, gắn liền với những bước chân khai phá về phương Nam hơn hai thế kỷ trước. Dẫu trải qua bao biến thiên của lịch sử, công trình vẫn giữ nguyên vẻ uy nghi, cổ kính, là minh chứng sống động cho một giai đoạn hình thành và phát triển của vùng đất Khánh Hòa xưa.

Láng Le – Bàu Cò: Dấu son bất diệt của đất anh hùng

Giữa vùng đất phía Tây Nam, nơi dòng chảy hiện đại hòa cùng ký ức lịch sử hào hùng, Láng Le – Bàu Cò (xã Tân Nhựt, Tp. Hồ Chí Minh) vẫn là biểu tượng bất diệt của tinh thần yêu nước và lòng kiên trung của người dân Nam Bộ.

Đình Thoại Ngọc Hầu và Bia Thoại Sơn: Dấu ấn lịch sử trên vùng đất huyền thoại

Thoại Sơn (An Giang) là vùng đất nổi bật với địa hình đa dạng và nhiều danh lam thắng cảnh như hồ Ông Thoại, núi Ba Thê, Linh Sơn Tự, tượng Phật bốn tay, bàn chân Tiên... Trong đó, đình Thoại Ngọc Hầu là một di tích đặc biệt về mặt lịch sử – văn hóa, gắn liền với danh thần Thoại Ngọc Hầu, người có công lớn trong việc khai phá và phát triển vùng đất phương Nam dưới triều Nguyễn.

Chùa Linh Sơn Bửu Thiền: Dấu ấn văn hóa hơn 200 năm trên đỉnh núi Thị Vải

Ẩn mình giữa núi rừng hùng vĩ ở độ cao hơn 400m so với mực nước biển, chùa Linh Sơn Bửu Thiền tọa lạc tại phường Phú Mỹ, TP.HCM (trước đây thuộc phường Phú Mỹ, TP.Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu) là một trong những ngôi cổ tự có giá trị văn hóa – tâm linh đặc sắc tại Đông Nam Bộ. Không chỉ nổi bật bởi kiến trúc độc đáo, chùa còn lưu giữ giai thoại về vua Gia Long, góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn hóa – lịch sử dân tộc.

Bài 2: Dòng họ Trịnh Bá Yên Lộ đồng hành cùng sự phát triển của dân tộc

Từ rất xa xưa, làng Yên Lộ có bốn họ: Trịnh, Đinh, Đỗ, Lưu về đây sinh sống, thấy mảnh đất trù phú, tốt tươi đã cùng nhau xây dựng lập lên làng Yên Lộ

Bài 1: Làng Yên Lộ trong dòng chảy lịch sử dân tộc

Làng Yên Lộ, Yên Nghĩa, Hà Nội (xưa là An Lộ trang, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên, trấn Sơn Nam) nằm trong “Tam Lộ, Ngũ Lãm” là một trong những làng Việt cổ đại (Kẻ Yên – Kẻ Tuân – Kẻ Do – Kẻ Nghĩa – Kẻ Sốm được hình thành với quá trình dựng nước của dân tộc từ thủa các Vua Hùng) cách Ba La Bông Đỏ chừng 2 km, ngụ bên bờ trái đoạn thượng nguồn dòng Hát Giang nay là sông Đáy thuộc châu thổ sông Hồng.

Chiến khu Đ – Di tích quốc gia đặc biệt giữa rừng Mã Đà (Đồng Nai)

Nằm giữa vùng rừng nguyên sinh Mã Đà, xã Trị An, tỉnh Đồng Nai (trước đây thuộc huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai), Chiến khu Đ là một trong những di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia đặc biệt của Việt Nam. Đây từng là căn cứ địa chiến lược trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, nơi hun đúc tinh thần yêu nước, kiên cường của quân dân miền Đông Nam Bộ.

Chùa Việt Nam Quốc Tự: Biểu tượng lịch sử của Phật giáo Việt Nam đương đại

Chùa Việt Nam Quốc Tự không chỉ là công trình tôn giáo mang đậm dấu ấn kiến trúc Phật giáo Bắc Tông tại TP.Hồ Chí Minh, mà còn là biểu tượng gắn liền với một giai đoạn đấu tranh lịch sử đầy biến động của Phật giáo Việt Nam vào đầu thập niên 1960. Sự ra đời, trùng tu và phát triển của ngôi chùa này phản ánh những chuyển biến quan trọng trong mối quan hệ giữa Phật giáo và xã hội Việt Nam hiện đại.
Top