Trong số những người có công đưa Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế, Thái sư Á Vương Đào Cam Mộc và nhà sư Vạn Hạnh được xếp là Đệ nhất Khai quốc công thần triều đình nhà Lý.

Theo "Đại Việt Sử ký Toàn thư" (Trọn bộ – NXB Thời Đại), nhà sư Vạn Hạnh được xem là người khởi xướng ý tưởng lập nên một triều đại mới, trong khi Thái sư Đào Cam Mộc là người tổ chức và trực tiếp chỉ huy việc chuyển giao quyền lực một cách nhanh chóng, không đổ máu.
Vào thời vua Lê Long Đĩnh (trị vì từ 1005 đến 1009), triều Tiền Lê rơi vào tình trạng suy yếu. Nhà vua bị sử sách ghi lại là có nhiều hành vi tàn bạo, trái đạo lý. Năm 1005, Lê Long Đĩnh giết anh trai là Lê Trung Tông (Lê Long Việt) để đoạt ngôi, khiến lòng dân oán hận, tình hình trong nước rối ren, bên ngoài thì giặc Tống luôn rình rập xâm lấn.
Đến năm 1009, khi vua Lê Long Đĩnh qua đời, trong triều, uy tín của quan Thân vệ điện tiền đô chỉ huy sứ Lý Công Uẩn – người đứng đầu lực lượng bảo vệ nhà vua – ngày càng cao, được cả triều thần và dân chúng kính trọng.

Trong bối cảnh đó, nhà sư Vạn Hạnh – người có ảnh hưởng lớn trong giới trí thức và Phật giáo đương thời – từng khuyên Lý Công Uẩn rằng:
“Tôi mới thấy lời sấm lạ, biết rằng họ Lý sẽ cường thịnh, tất dấy nên cơ nghiệp. Nay trong thiên hạ, người họ Lý nhiều, nhưng không ai bằng ông – người khoan từ, nhân hậu, được lòng dân chúng, lại nắm binh quyền trong tay, đứng đầu muôn dân. Chẳng phải ông thì còn ai gánh nổi! Tôi nay hơn 70 tuổi, chỉ mong được thong thả để nhìn thấy đức hóa của ông ra sao – đó thực là điều may mắn hiếm có muôn năm mới gặp một lần.”
Đây là ý tưởng táo bạo nhưng hợp thời của nhà sư Vạn Hạnh. Tuy nhiên, để hiện thực hóa ý tưởng này và đưa triều Lý trở nên hưng thịnh cần có sự góp sức đắc lực của quan Chi hậu Đào Cam Mộc.
Theo sử sách, khi nhận thấy thời cơ đã chín muồi, Đào Cam Mộc từng nói riêng với Lý Công Uẩn:
“Bấy nay chúa thượng ngu tối, bạo ngược, làm nhiều việc bất nghĩa. Trời không cho hết thọ; con nối còn thơ ấu, không cáng đáng nổi thời thế. Trăm việc phiền nhiễu, bách thần không ưa, dân chúng đang ngong ngóng tìm minh chủ. Sao ông không nhân lúc này vận dụng mưu cao, quyết đoán sáng suốt? Xa thì xem dấu cũ của Thanh Vũ, gần thì xem việc của Đinh – Lê. Trên thuận lòng trời, dưới hợp lòng dân, sao cứ khư khư giữ chút tiết hạnh của bề tôi nhỏ nhoi?”
Nghe vậy, Lý Công Uẩn ban đầu sợ Đào Cam Mộc có mưu khác nên dọa tố cáo trước bá quan. Đào Cam Mộc bình thản đáp:
“Tôi thấy việc trời và người như thế mới dám nói ra. Ông muốn tố cáo tôi, tôi cũng xin thưa rằng tôi không sợ chết.”
Lý Công Uẩn nói:
“Tôi đâu nỡ tố cáo ông, chỉ sợ lời ông tiết lộ ra, cả hai chúng ta đều nguy, nên mới răn như thế mà thôi.”
Một thời gian sau, Đào Cam Mộc lại nhấn mạnh với Lý Công Uẩn:
“Người trong nước đều bảo họ Lý khởi nghiệp lớn, lời sấm đã hiện. Đó là họa không thể che giấu, nhưng có thể chuyển họa thành phúc trong sớm chiều. Đây là lúc trời trao, người theo. Thân vệ còn ngại ngần gì nữa?”
Lý Công Uẩn đáp:
“Tôi đã hiểu rõ ý ông, không khác gì ý Vạn Hạnh. Nếu theo lời ấy thì nên tính kế thế nào?”
Đào Cam Mộc khuyên:
“Ông là người công minh, khoan hồng nhân từ, lòng dân hướng về. Hiện nay trăm họ khốn khổ, dân không chịu nổi. Ông hãy lấy nhân đức mà vỗ về, dân chúng tất sẽ kéo về như nước chảy chỗ thấp, ai có thể ngăn lại được?”
Thấy thời cơ chín muồi, Đào Cam Mộc liền bàn với các khanh sĩ và quan trong triều. Ai nấy đều đồng thuận, ngay hôm đó họp ở chính điện, cùng bàn:
“Hiện nay dân chúng khác lòng, trên dưới lìa ý, chán ghét Tiên đế hà khắc bạo ngược, không muốn theo vua nữa mà đều có ý suy tôn quan Thân vệ. Chúng ta không nhân lúc này tôn phù Thân vệ làm thiên tử, nhỡ xảy biến, liệu có giữ được tính mạng không?”
Tất cả đồng lòng thực hiện. Ngay trong ngày, họ cùng dìu Lý Công Uẩn lên chính điện, lập làm Hoàng đế. Trăm quan quỳ dưới sân, trong ngoài đồng thanh hô “Vạn tuế”, vang dậy khắp triều đình.

Theo sử sách, cuộc chuyển giao quyền lực từ nhà Tiền Lê sang nhà Lý diễn ra hết sức nhanh chóng và êm thấm, không gặp bất kỳ sự phản kháng nào đáng kể trong triều. Điều đó cho thấy vai trò quan trọng và ảnh hưởng sâu rộng của Thái sư Đào Cam Mộc – người được xem là nhân vật đứng sau dàn xếp toàn bộ sự kiện lịch sử này.
Rất có thể, trước khi sự việc diễn ra, ông đã âm thầm vận động triều thần, củng cố lực lượng vũ trang và tạo được sự đồng thuận từ các vị quan trọng trong triều. Bởi lẽ, không thể phủ nhận rằng trong triều đình khi ấy vẫn còn sự hiện diện của hoàng thân quốc thích nhà Lê, cùng những cận thần thân tín của vua Lê Long Đĩnh. Thế nhưng, cuộc chuyển ngôi diễn ra trong không khí “vui vẻ”, “mọi người đồng lòng nghe theo” – như chính sử chép lại – cho thấy sự chuẩn bị kỹ lưỡng và tài thao lược trong việc “bài binh bố trận” của Đào Cam Mộc.
Không thể không nhắc đến vai trò ảnh hưởng của nhà sư Vạn Hạnh – người đã khởi xướng tư tưởng và tạo nền tảng tinh thần cho sự thay đổi triều đại. Tuy nhiên, chính Đào Cam Mộc là người biến ý tưởng đó thành hiện thực, với sự quyết đoán và khéo léo trong tổ chức.
Cuộc đổi ngôi giữa hai triều đại diễn ra trong yên ổn, mở ra một thời kỳ mới – triều Lý, một vương triều huy hoàng kéo dài 216 năm (1009–1225), đánh dấu bước chuyển mình quan trọng trong lịch sử phong kiến Việt Nam.

Theo lời kể của các bậc cao niên ở làng Đào Xá, xã Phượng Dực, TP. Hà Nội, Thái sư Đào Cam Mộc – một trong những khai quốc công thần triều Lý – sinh ngày 16 tháng 8 năm Kỷ Hợi (năm 939) tại làng Tràng Lang (quê nội), nay thuộc xã Định Tiến, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa. Quê ngoại của ông được cho là ở làng Nam Thạch cùng huyện.
Thuở nhỏ, Đào Cam Mộc mồ côi cha, sống chủ yếu bên ngoại trong hoàn cảnh nghèo khó. Ông từng phải mò cua bắt ốc để mưu sinh, nhưng nổi bật với sức khỏe phi thường và trí tuệ vượt trội. Khi trưởng thành, tiếng tăm về sức vóc và tài năng của ông lan rộng trong vùng.
Một giai thoại được truyền lại cho biết: trong một lần vua Lê Đại Hành tuần du qua vùng sông Mã (xưa gọi là Cựu Mã Giang), thuyền ngự bị mắc cạn mà binh lính không sao khắc phục được. Lúc đó, chàng thanh niên Đào Cam Mộc – đang lặn bắt dưới sông – đã tình nguyện đến giúp. Ông dùng sức và mưu kế, ghé vai nâng phần mạn thuyền khiến con thuyền dịch chuyển được, trước sự kinh ngạc và thán phục của mọi người.
Vua Lê Đại Hành cảm kích, liền tuyển Đào Cam Mộc vào đội vũ sĩ, giao nhiệm vụ phò vua giúp nước. Từ một người dân thường, ông dần trưởng thành qua nhiều trận chinh chiến, trở thành tướng tài trong triều đình.
Đào Cam Mộc qua đời vào tháng Giêng năm Ất Mão (1015) tại tư dinh ở Cổ Loa (nay thuộc huyện Đông Anh, Hà Nội). Ghi nhận công lao to lớn, vua Lý Thái Tổ đã truy tặng ông tước vị Thái sư, tức Á Vương Đào Cam Mộc, một trong những nhân vật có công lớn trong việc chuyển giao quyền lực và lập nên triều đại nhà Lý – vương triều rực rỡ kéo dài hơn hai thế kỷ trong lịch sử Việt Nam.
Những người có công lớn đưa Lý Công Uẩn lên ngôi Hoàng đế (trong đó phải kể đến ảnh hưởng của nhà sư Vạn Hạnh) đã xếp Đào Cam Mộc vào vị trí đệ nhất khai quốc công thần. Nếu Vạn Hạnh là người khởi xướng ý tưởng, thì Thái sư Á Vương Đào Cam Mộc là nhân vật tổ chức, chỉ huy cuộc đổi ngôi diễn ra êm thấm, không đổ máu.
Khi Lý Thái Tổ lên ngôi, Đào Cam Mộc được tham gia vào việc xác định kinh đô mới. Vua đã hội ý cùng Vạn Hạnh, Đào Cam Mộc và các quan trong triều để tìm vùng đất phù hợp để định đô, phát triển sự nghiệp nhà Lý. Nhận thấy Hoa Lư chật hẹp, ẩm thấp, vua ban chiếu (theo “Đại Việt Sử ký Toàn thư”):
“… Trẫm rất xót thương, không thể không dời đi nơi khác. Huống chi đo cũ của Cao Vương ở thành Đại La, ở giữa khu vực trời đất, có thể rồng cuộn, hổ ngồi… đất rộng bằng phẳng, chỗ cao sáng sủa, dân cư không bị ngập lụt… xem khắp nước Việt, nơi ấy là hơn cả. Thực là chỗ hội họp của bốn phương, là nơi thượng đô của kinh sư muôn đời.”

Người cao tuổi ở làng Đào Xá truyền rằng, sau khi khảo sát vùng đất phong thủy đẹp – khu vực Hà Nội ngày nay, nơi có thế rồng cuộn, hổ ngồi, lưng tựa núi Ba Vì, mặt nhìn sông Hồng – vua quyết định dời đô. “Chiếu dời đô” lan truyền khắp dân gian. Đào Cam Mộc được giao tổ chức cuộc hành quân lịch sử này – từ đó đến nay người ta vẫn kính phục tầm nhìn của vua Lý, tài dùng người và nghệ thuật tổ chức của các tướng sĩ, mà công lớn thuộc về Đào Cam Mộc.
Khi triều chính tạm ổn, vào tháng 2 năm Thuận Thiên thứ nhất (1010), vua cùng phò mã Đào Cam Lộc khởi hành viễn chinh các tỉnh miền ngoài để khảo sát đất đai. Quyết định dời đô về Thăng Long có sự góp ý và công sức đáng kể của Đào Cam Mộc. Theo “Tự phả chùa cổ Đông Hải” (Minh Tuệ thiền sư, 1840), dẫn chép từ Ngọc phả thời Lê (Quản giám Nguyễn Bính, 1557), Đào Cam Mộc từng tu học, giỏi võ, thông văn. Tháng 6 năm 1010, vua phong ông làm Thiên Đô tiên phong tướng quân, chỉ huy việc dời đô. Khi xuất quân về phía Đại La, truyền thuyết kể rằng khi thuyền đến chân thành thì có hai con rồng vàng hiển hiện, nhà vua đặt tên kinh thành là Thăng Long.
Cũng theo truyền miệng, đất Vũ Bị (nay thuộc vùng ngoại thành) đẹp tự nhiên, dân làng hiền hòa, phò mã xin được đất để sau này đưa công chúa về cư trú. Vợ chồng Đào Cam Mộc khuyên dân tương trợ nhau trong cấy cày, xây dựng cuộc sống. Công chúa An Quốc từng mở mang ruộng đất và xin dựng bia ghi công nghiệp; đến nay ở phủ Vũ Bị vẫn còn hai tấm đá cổ, các nhà chuyên môn gọi là “Thạch Kiệt”. Bia khắc năm Hồng Thuận thứ 5 (25/2/1513) ghi lại việc trao 140 mẫu ruộng cho người có công, ở các vùng xa như Đồng Ba, xã Đồn Xá, huyện Bình Lục.
Các di tích thờ vợ chồng và con cháu Đào Cam Mộc đều được xây dựng đền, miếu quy mô, được các vua nhà Nguyễn ban nhiều đạo sắc phong. Ở Cổ Loa – nơi ông từng đặt tư dinh – nay vẫn có đường mang tên Đào Cam Mộc (xã Uy Nỗ, thị trấn Đông Anh, xã Việt Hùng).

Năm 1015 (năm Ất Mão), vào mùa xuân tháng Giêng, Đào Cam Mộc qua đời. Vua phong truy tặng Thái sư Á Vương, cho đục tượng thờ ở chùa Hưng Phúc (quê nội Tràng Lang) và cho lập đền thờ bề thế tại quê ngoại Nam Thạch. Theo truyền thuyết, do nhiều lần lụt, đồ thờ và bài vị của ông trôi dạt từ Nam Thạch về làng Bùi Hạ; dân làng Bùi Hạ cho đó là điềm thiêng liêng, nên xây đền riêng gọi là Nghè Hạ (đền ở Nam Thạch gọi Nghè Thượng). Hai làng Nam Thạch và Bùi Hạ kết nghĩa, cùng tế lễ ngày 23–25 tháng 11 âm lịch. Ngoài ra, Nam Thạch cũng kết nghĩa với Tràng Lang (quê nội), dù cách xa vẫn giữ mối liên hệ gắn bó, giúp đỡ nhau từ đời này sang đời khác.
Đào Cam Mộc còn có hai vợ: Công chúa An Quốc (vợ do vua phong gả) và bà Đỗ Thị Uyển (con quan Đỗ Hương, làng Vân Tra, An Dương, Hải Phòng). Bà Uyển sinh hai con trai: Đào Lôi và Đào Điện – cả ba cha con đều làm quan lớn thời nhà Lý. Di tích đình, chùa Vân Tra (xã An Đồng, huyện An Dương, Hải Phòng) được xếp hạng cấp quốc gia năm 1994; nơi này thờ cả Đỗ Thị Uyển và Đào Lôi. Con đường Đào Cam Mộc ở Sài Gòn (quận 8) cũng là cách để ghi nhớ công lao ông – người có công đầu trong việc tôn Lý Công Uẩn lên ngôi, khai lập triều Lý./.
THÁI SƯ Á VƯƠNG HỌ ĐÀO
… Đức Thánh Tổ Đào Cam Mộc
Đệ Nhất Khai Quốc Công Bộc Lý Triều
“Thăng Long – Hà Nội” quá siêu
Nghìn thu tỏ rõ “Vương Triều Đế Đô” …
Hôm rồi con vội chạy sô
Tìm về nguồn cội “Thánh Tổ họ Đào”
Uy nghi Liệt lẫm tự hào
Á Vương Cam Mộc: Miếu Đào khắc ghi …
Hoành phi câu đối lâm ly
“Giang Sơn Triều Lý Tối Linh Công Thành
Trung Hưng Dực Bảo Sử Xanh
Anh Linh Cổ Diệc Rạng Danh Muôn Đời” …
Công trạng khai quốc lòng trời
Định Đô Triều Lý di dời Tràng An
Thủ Đô văn hiến giang san
Á Vương Cam Mộc ngút ngàn công lao …
Thạc sĩ Phùng Quang Trung - Chủ tịch Hội Đồng thẩm định, Viện Nghiên cứu Văn hóa tín ngưỡng Việt Nam - Nguyên Trưởng phòng Văn học thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch