banner 728x90

Đào Cam Mộc – Từ công thần triều Lý đến Thánh Tổ làng Đào Xá

06/10/2025 Lượt xem: 2362

 

Ngày 23/9/2010 (16/8 âm lịch năm Canh Dần), Hội đồng Liên lạc họ Đào Việt Nam đã xây dựng Khu nhà bia tưởng niệm Thái sư Á Vương Đào Cam Mộc.

 Thái sư Á Vương Đào Cam Mộc, người có công đầu đưa Lý Công Uẩn lên ngôi Thái Tổ nhà Lý (1009), và dời đô từ Hoa Lư về Thành Đại La, lập kinh đô mới, đặt tên là Thăng long (1010), mở đầu một kỷ nguyên văn hiến, cường thịnh của nước Đại Việt, kéo dài suốt 216 năm (1009 – 1225).

Thái sư Á Vương Đào Cam Mộc đã có công đức, đưa người từ các vùng đến khai khẩn đất hoang, dựng nhà, đào kênh, mở đường, lập ra làng Đào Xá – xã Hoàng Long – huyện Phú Xuyên – Hà Nội ngày nay.

Kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, con cháu họ Đào Việt Nam và dân làng Đào Xá – xã Hoàng Long, lập bia tưởng niệm, đời đời ghi nhớ công ơn của Đức Thánh Tổ - Thái sư Á Vương Đào Cam Mộc.

Làng Đào Xá xưa kia là trang Đào Xá (hay Đào Xá trại), thuộc vùng Đồng Vàng, hương Đường Hoàng Trung, huyện Phù Lưu, lộ Quốc Oai. Vùng Đồng Vàng thời ấy từng là trung tâm buôn bán sầm uất, “trên bến dưới thuyền”, là điểm hội tụ giao thương giữa các miền trong vùng. Ngày nay, vùng đất này này thuộc xã Phượng Dực, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội.

Theo văn bia niên hiệu Thiệu Long năm thứ 12 (1270), đời vua Trần Thánh Tông (1258-1272), Đào Xá – Đồng Vàng là vùng đất nổi tiếng với nhiều nghề thủ công truyền thống, được dân gian truyền tụng qua câu ca dao, tục ngữ lưu truyền trong huyện Phú Xuyên.

Hỡi cô thắt bao lưng xanh

Có về Đào Xá với anh thì về

Đào Xá thợ Ngõa thợ Nề

Nhuệ Giang tắm mát có nghề làm men

 

Đào Xá có nghề làm men

Cổ Hoàng làm kẹo, Thanh Xuyên buôn ngài

Muốn ăn bánh đúc với ngài

Bỏ cha bỏ mẹ theo trai Đồng Vàng

Kẻ Dũi đi dủi bán tôm

Cổ Hoàng bán mật, Thanh Xuyên bán ngài

Kẻ Sộp thì bán áo tơi

Bên Vân bán vải, bên Đầu bán men…”

Theo thần phả tương truyền, xưa kia ở làng Đào Xá có một người làm nghề chở đò tên là Nghiêm Đạt. Ông là người chất phác, hiền hậu, sống nhân từ, thương người, nhưng không có con. Cuộc đời ông gắn bó với bến nước con đò và lòng từ tâm vô bờ bến.

Vào một đêm đông giá rét, khi trời đã khuya, ông bỗng nghe có tiếng gọi đò văng vẳng từ bên kia sông. Dù đêm tối, mưa lạnh, ông vẫn không ngần ngại chèo đò sang đón khách. Tuy nhiên, đến nơi, không thấy bóng người, chỉ còn lại màn đêm và tiếng côn trùng râm ran giữa không gian tĩnh mịch.

Ông quay đò trở về, nhưng khi vừa nằm nghỉ, tiếng gọi đò lại vang lên, tha thiết và đầy khẩn cầu. Ông tiếp tục chèo đò sang lần nữa, nhưng cũng không gặp ai. Đến lần thứ ba, ông vẫn không chút do dự, lại chèo đò vượt sông. Lần này, ông gặp một cô gái trẻ, dung mạo phúc hậu, xin được qua sông và ngỏ ý muốn trọ lại qua đêm. Thương tình, ông sẵn lòng nhường chăn chiếu cho cô gái, còn mình ra nằm ngoài lều.

Tới canh tư, ông thức dậy và gọi cô gái dậy như đã hứa, nhưng cô vẫn ngủ say. Đến canh năm, ông nhẹ nhàng mở chiếu, thì kinh ngạc nhận thấy nơi cô nằm chỉ còn lại một đống vàng sáng chói. Ông sững người, rồi chợt hiểu: đây hẳn là ơn Trời Phật ban cho, thử thách lòng người giữa đêm đông giá rét. Cô gái chính là hóa thân của trời đất, ban vàng để đền đáp lòng nhân hậu và tấm lòng yêu thương con người của ông.

Ông Nghiêm Đạt đã không giữ vàng cho riêng mình. Ông dùng toàn bộ số vàng ấy, cùng tiền tích cóp được trong bao năm, để xây cầu, mở chợ, dựng đình, lập chùa, khai sáng vùng đất Đồng Vàng, giúp dân mở mang cuộc sống, tạo dựng nơi thờ tự, sinh hoạt tín ngưỡng và phát triển cộng đồng. Tên gọi Đồng Vàng cũng ra đời từ đó, gắn với sự tích thiêng liêng này.

Sau khi hoàn thành việc đại sự, một hôm ông trèo lên mái cầu để kiểm tra lần cuối. Bất ngờ, một trận cuồng phong nổi lên, trời đất chuyển mình, sấm sét đùng đoàng, mây tía cuộn lại đưa ông hóa về cõi thánh. Sự hiển linh diễn ra đúng vào giờ ngọ ngày mồng Một tháng Tám. Từ đó, dân làng ghi ơn công đức, tạc tượng, lập đền thờ, tôn ông là Đức Thánh Tiên – Nghiêm Đạt, người khai sinh vùng Đồng Vàng. Hằng năm, vào những dịp lễ, rước thánh, dân năm thôn trong vùng đều tụ hội về chợ Đồng Vàng để tưởng niệm và cầu an.

Trong văn tế Đức Thánh tiên Nghiêm Đạt tại miếu Đào Xá còn lưu lại hai câu đối linh thiêng, ca ngợi công đức và sự hiển thánh của Ngài:

“Đào Xá giáng thần, tú xuất sơn hà chi chính khí
Đồng Vàng hiển thánh, xung phi bồng đảo chi khinh trần.”

Làng Đào Xá, nay thuộc xã Phượng Dực, thành phố Hà Nội, là mảnh đất địa linh nhân kiệt, nơi thờ phụng Đức Thánh Tổ – Thái sư Á Vương Đào Cam Mộc và Đức Thánh Tiên Nghiêm Đạt, hai vị tiền nhân có công lớn trong buổi đầu dựng xây quốc gia và mở mang bờ cõi.

Ngày 20/9/2025, chúng tôi có dịp về thăm làng, sưu tầm tư liệu lịch sử và may mắn được gặp gỡ, trò chuyện với các nhân chứng lịch sử và đại diện dòng họ, địa phương: ông Đào Duy Anh (nguyên Huyện ủy viên huyện Phú Xuyên, nguyên Bí thư, Chủ tịch UBND xã Hoàng Long cũ), ông Đào Văn Bàng (Trưởng thôn), ông Nghiêm Xuân Thiều (Bí thư Chi bộ thôn), ông Nghiêm Minh Khôi (cựu cán bộ ngành Giáo dục – Đào tạo) và một số cụ cao niên trong làng.

Qua lời kể và gia phả truyền lại, được biết: Cách đây hơn 1000 năm, vào thời điểm Vua Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long (năm 1010), Thái sư Á Vương Đào Cam Mộc đã từng đặt chân đến vùng đất này trong một buổi chiều hoàng hôn lịch sử. Khi ngài nghỉ chân, người dân địa phương ra đón tiếp, thăm hỏi. Theo gia phả, Đào Xá trang khi đó chỉ có 36 cư dân, sinh sống tại khu ngõ Sượng (nay là gò đất cao khu nghĩa trang làng).

Ngài đã tận tình hỏi han, căn dặn dân làng về cách sinh sống, hướng dẫn kỹ thuật canh tác, chăn nuôi, nuôi tằm, dệt vải, đào giếng lấy nước sạch, giữ gìn thuần phong mỹ tục. Đặc biệt, mỗi người dân được Ngài cho vài trăm quan tiền làm vốn để an cư lập nghiệp. Chính từ nền tảng đó, làng Đào Xá dần phát triển và trở thành một vùng quê trù phú.

Trải qua bao biến thiên của lịch sử, từ một trại nhỏ xưa kia, Đào Xá ngày nay đã có hơn 600 hộ dân với gần 2.000 nhân khẩu. Làng có 5 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 44 liệt sĩ đã hy sinh trong các cuộc kháng chiến, 22 thương – bệnh binh, và nhiều thế hệ con em ưu tú thành đạt: Tiến sĩ, Thạc sĩ, Kỹ sư, Sỹ quan cao cấp trong lực lượng vũ trang, cán bộ chủ chốt của địa phương qua các thời kỳ.

Làng Đào Xá hiện đạt danh hiệu Làng Văn hóa cấp huyện, đạt chuẩn Nông thôn mới, với hệ thống đường làng ngõ xóm khang trang, bê tông hóa, cảnh quan sáng – xanh – sạch – đẹp, đời sống nhân dân ngày càng nâng cao. Bản sắc văn hóa làng quê Đào Xá không chỉ lưu truyền qua thế hệ mà còn in đậm trong ca dao, dân ca cổ:

“Dù ai buôn đâu bán đâu,
Tháng Tám mười sáu rủ nhau mà về.
Dù ai buôn bán trăm nghề,
Tháng Tám mười sáu thì về Hội quê.”

“Giếng Đào Xá vừa trong vừa mát,
Đường Đào Xá bê tông dễ đi.”

“Gái Đào Xá như hoa thiên lý,
Trai thiên hạ ngỏ ý xin về.”

“Bánh đúc Đào Xá xẻ ba,
Mắm tôm quệt ngược, cả nhà anh siêu.”

Miếu Đào Xá là nơi thờ tự Thái sư Á Vương Đào Cam Mộc và Đức Thánh Tiên Nghiêm Đạt. Tọa lạc trên một thửa đất độc lập rộng khoảng 8.000 m², miếu hướng Đông Nam, vị trí thoáng đãng, yên bình.

Với giá trị lịch sử lâu đời, ngày 14/1/2014, UBND thành phố Hà Nội đã ban hành Quyết định số 2702/QĐ‑UBND‑VX, công nhận Miếu Đào Xá là Di tích Lịch sử – Kiến trúc – Nghệ thuật. Công trình mang nhiều dấu ấn truyền thống: Miếu được xây dựng trong khoảng thời gian từ 1453 đến 1500 (thời nhà Mạc), hiện vẫn còn hai cây duối cổ có tuổi đời khoảng 500 năm, tương tự như dãy duối “buộc voi” nổi tiếng ở làng cổ Đường Lâm. Ngoài ra, trong miếu còn lưu giữ hai bản sắc phong cổ đã mòn, tấm bia đá cổ thời nhà Mạc (niên đại 1590), và một bảng gỗ chữ Hán – Nôm ghi thần tích và lịch sử xây dựng trong thời Mạc Mậu Hợp (1562–1592).

Kiến trúc miếu theo kiểu “chữ Đinh”, với vật liệu truyền thống: vôi giấy, gỗ lam, gạch cổ. Hệ thống nội thất gồm: bộ long ngai sơn son thiếp vàng, bát hương cổ, cây nến đồng, lọ lục bình, hương án sơn son, đỉnh đồng đều thuộc thời Nguyễn — tất cả là những cổ vật có giá trị lịch sử và nghệ thuật.

Trước tiền tế, có bốn câu đối ca ngợi công lao của Thái sư:

  • “Bất tật nhi tốc, bất hành nhi chí / Phi long nhi sương, phi hổ nhi hung”
  • “Lẫm lẫm uy linh bàng đế khuyết / Nguy nguy tượng mạo vũ thần uy”
  • “Thánh minh khải vận, anh thanh phi chấn Lý càn khôn / Thần vũ dương uy linh, tích quynh tiêu Lê nhật nguyệt”
  • “Địa khởi phiêu Đào, Xá chỉ thiên thu chúng tú khí / Dân gian ân Phú, Xuyên lưu vạn phái ngưỡng hồng ân”

Trong hậu cung và gian nhà thờ, hoành phi, câu đối khắc họa tính linh thiêng và giá trị văn hóa: như “Dực Bảo Trung Hưng”, “Giang Sơn Tối Linh”, cùng những câu đối ca ngợi đức và sự bảo hộ của thần linh đối với dân làng.

Đình làng Đào Xá cũng giữ nhiều câu đối, câu thơ cổ, bình phong đặc sắc – tất cả góp phần khắc họa truyền thống tôn kính Thành hoàng, lòng biết ơn với công lao của người khai sáng làng quê.

 

Về mặt kiến trúc – mỹ thuật, Miếu Đào Xá bảo lữu được những đặc trưng hiếm hoi: hệ khung vì, chiên kẻ, xó mái, các mảng chạm rường, đầu dư, đầu đao được chạm khắc tinh xảo, mang dấu ấn nghệ thuật thời Nguyễn. Những nét chạm khắc và hoa văn trên cốn, rường gỗ là minh chứng cho tay nghề mỹ thuật dân gian vượt thời gian.

Làng Đào Xá không chỉ nổi bật vì Miếu Đào Xá, mà còn vì bề dày truyền thống: lịch sử phát triển nông nghiệp, truyền thống cách mạng, văn hóa làng quê… Nguồn gốc của làng cũng được ghi nhận trong các tài liệu cổ: thuở sơ khai, Đào Xá xây dựng trên vùng đất “cánh đồng Đanh”, gọi là Đào Xá trại. Thái sư Á Vương Đào Cam Mộc được cho là người dẫn dắt 36 cư dân đến lập nghiệp, cấp tiền bạc đất đai để xây nhà, cấy ruộng. Sau này, do nhu cầu mở rộng, làng đã di chuyển về phía nam khoảng 200 m và được biết đến với tên gọi Đào Xá như ngày nay.

Đào Cam Mộc, với vai trò là danh thần triều Lý, không chỉ góp công vào việc đưa Lý Công Uẩn lên ngôi (1009) mà còn hỗ trợ phát triển cơ sở vật chất, mở đường, đào kênh, xây dựng, giúp làng Đào Xá có nền tảng phát triển bền vững. Từ một vùng đất hoang sơ, Đào Xá hiện nay giữ được nhiều di tích giá trị, hòa quyện giữa nét cổ kính và sự phát triển ngày càng hiện đại.

Miếu Đào Xá ngày nay còn là trung tâm văn hóa – tâm linh của cộng đồng: hằng năm, vào các ngày 16/8 âm lịch và 12/11 âm lịch, người dân tổ chức lễ hội tưởng nhớ công lao của Thái sư Á Vương, đón khách địa phương và du khách thập phương về dự. Đây là dịp để bảo tồn truyền thống, giáo dục lòng yêu lịch sử và lan tỏa hình ảnh Đào Xá ra bên ngoài.

Từ di tích Miếu Đào Xá, truyền thống cách mạng, tới sự phát triển kinh tế – xã hội — nơi này là minh chứng sinh động cho sự giao thoa giữa quá khứ và hiện đại. Trong bối cảnh quy hoạch và phát triển đô thị, Đào Xá hứa hẹn sẽ tiếp tục được quan tâm bảo tồn và là điểm đến văn hóa hấp dẫn trong tương lai.

Thạc sĩ Phùng Quang Trung - Chủ tịch Hội Đồng thẩm định, Viện Nghiên cứu Văn hóa tín ngưỡng Việt Nam - Nguyên Trưởng phòng Văn học thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đại Việt Sử ký Toàn Thư (2013) Nhà Xuất bản Thời Đại

2. Địa chí Hà Tây (2007) Sở Văn hóa Thông tin Hà Tây

3. Kho Tàng Văn học Dân gian Hà Tây (2006) Hội Văn học Nghệ thuật Hà Tây

4. Tục ngữ Ca dao Phú Xuyên Xưa và Nay (2010) Nhà Xuất bản Hải Phòng

5. Phượng Dực Đăng Khoa Lục (1995) Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội

6. Lễ hội Cổ truyền Hà Tây (1999) Sở Văn hóa Thông tin Hà Tây

7. Đến với Truyền thống và Di sản Văn hóa (2010) Nhà Xuất bản Văn hóa Thông tin

8. Di tích Hà Tây (1999) Sở Văn hóa Thông tin Hà Tây

9. Việt Nam Văn hóa Sử cương (1992) Đào Duy Anh

10. Tín ngưỡng Thành Hoàng Việt Nam – Nguyễn Duy Hinh

11. Đồng Vàng Quê Ta (1996) Lê Ngoạn (Chủ biên)

12. Vũ Thanh Sơn, các vị Thần thời Lý (2011) Nhà Xuất bản Quân đội nhân dân

13. Các Đại công thần trong lịch sử Việt Nam (2013) Nhà Xuất bản Lao động

14. Bảo tàng hóa Di sản văn hóa làng (2006) Đặng Văn Bài, Nguyễn Hữu Toàn, NXB Thế Giới

 

 

 

 

Tags:

Bài viết khác

Thái sư Á Vương Đào Cam Mộc: Đệ nhất khai quốc công thần triều Lý

Trong số những người có công đưa Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế, Thái sư Á Vương Đào Cam Mộc và nhà sư Vạn Hạnh được xếp là Đệ nhất Khai quốc công thần triều đình nhà Lý.

Nước Mắm Phú Quốc – Tinh Hoa Di Sản Văn Hóa Phi Vật Thể Quốc Gia

Nghề làm nước mắm Phú Quốc khởi nguồn từ thế kỷ XIX, khi nghề đánh cá ven biển dần gắn liền với quá trình chế biến nước mắm. Theo một số tài liệu của người Pháp, Phú Quốc đã sớm trở thành trung tâm sản xuất nước mắm lớn của Việt Nam. Đến nay, nghề truyền thống này vẫn tiếp tục được duy trì và phát triển, đóng góp vào đời sống của hàng ngàn cư dân trên đảo.

Mẹ Nam Hải Bạc Liêu – Chốn Thiêng Liêng Giữa Biển Trời Nam Bộ

Bạc Liêu – Không chỉ được biết đến với giai thoại về công tử hào hoa hay những cánh đồng điện gió nối dài đến tận chân trời, Bạc Liêu còn là điểm dừng chân tâm linh của hàng vạn du khách và Phật tử thập phương. Trong đó, Phật Bà Nam Hải – hay còn được người dân thân thương gọi là Mẹ Nam Hải – hiện lên như một biểu tượng thiêng liêng, chốn hành hương linh nghiệm bậc nhất miền Tây Nam Bộ.

Miếu Nổi Phù Châu – Di tích tâm linh độc đáo giữa lòng sông Vàm Thuật

Nằm biệt lập trên cù lao giữa sông Vàm Thuật, Miếu Nổi Phù Châu không chỉ là một địa điểm tín ngưỡng linh thiêng, mà còn là công trình kiến trúc mang đậm dấu ấn văn hóa Việt – Hoa, hiếm có giữa lòng đô thị Sài Gòn hiện đại.

Tượng Chúa Kitô Vua – Biểu tượng tâm linh và điểm đến nổi bật của Vũng Tàu

Nằm trên đỉnh Núi Nhỏ (còn gọi là núi Tao Phùng), phường Vũng Tàu, TP. Hồ Chí Minh, tượng Chúa Kitô Vua từ lâu đã trở thành một trong những công trình tôn giáo quy mô lớn và ấn tượng nhất Việt Nam. Không chỉ là điểm hành hương linh thiêng của giáo dân, nơi đây còn là biểu tượng du lịch nổi tiếng, thu hút hàng triệu lượt khách mỗi năm.

Ché – Hồn cốt của người dân đại ngàn Tây Nguyên

Giữa âm vang rộn rã của cồng chiêng – di sản văn hóa phi vật thể thế giới – những chiếc ché rượu cần lặng lẽ đứng đó, như linh hồn văn hóa của cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên.

Vẽ mắt cho thuyền – Hồn biển trong văn hóa ngư dân Việt

Trong dòng chảy lịch sử dân tộc, nghề chài lưới là một trong ba ngành nghề truyền thống đặc trưng của người Việt, bên cạnh nghề trồng lúa nước và nghề rừng. Cùng với đó, những phương tiện gắn liền với đời sống sông nước như thuyền, ghe, bè, thúng... không chỉ đóng vai trò là công cụ mưu sinh, mà còn là biểu tượng văn hóa, gắn liền với tín ngưỡng dân gian và phong tục truyền đời của cư dân miền biển.

Gìn giữ di sản văn hóa qua nghệ thuật múa dân gian Việt Nam

Trong kho tàng văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam, nghệ thuật múa dân gian chiếm một vị trí quan trọng, không chỉ là hình thức biểu đạt nghệ thuật mà còn là phương tiện chuyển tải những giá trị tinh thần, tín ngưỡng và bản sắc dân tộc. Từ miền Bắc đến miền Nam, mỗi vùng miền đều có những điệu múa đặc trưng, góp phần làm phong phú bức tranh văn hóa dân tộc Việt.
Top