banner 728x90

Nét đặc trưng trong dân ca dân tộc Mông

13/11/2024 Lượt xem: 2625

Đồng bào dân tộc Mông vốn có văn hóa rất đặc sắc. Trong đó, dân ca là một nét văn hóa đặc trưng không thể không nhắc tới. Những tiếng hát dân ca từ bao đời nay vẫn được cất lên mỗi dịp sum vầy hay chia xa, lúc vui hay lúc buồn, thay cho tiếng lòng vời vợi chất chứa bao nỗi niềm và cảm xúc của mỗi người.

Dân ca dân tộc Mông là chất liệu quý cho các sáng tác ca khúc hiện đại.

Dân ca dân tộc Mông rất muôn màu và đa sắc thái, mang đến cho người nghe những cảm nhận đặc biệt về thanh âm, luyến láy cùng nội dung phong phú. Mỗi lời hát cất lên gửi gắm trong đó bao xúc cảm, tâm tình, là tiếng lòng của người hát thể hiện qua câu chữ kết hợp với âm điệu. Dân ca Mông được chia thành 5 tiếng hát: tiếng hát tình yêu “gầu plềnh”, tiếng hát cưới xin “gầu xống”, tiếng hát làm dâu “gầu ua nhéng”, tiếng hát mồ côi “gầu tú giua”, tiếng hát cúng “gầu tùa”. Mỗi làn điệu được dùng cho những ngữ cảnh khác nhau với những cách thể hiện, diễn xướng và nội dung khác nhau. Trong số đó “gầu ua nhéng” có lẽ là làn điệu được biết đến nhiều hơn cả gắn với tác phẩm văn học dân gian “Tiếng hát làm dâu”, với những câu hát rất chân thật: “Em đang ở nhà em không biết/Nhà trai sang la liệt dù, ô/Dù, ô đã ngoắc cột nhà/ Thế là thành vợ, thế là làm dâu”.

Đồng bào dân tộc Mông thể hiện các làn điệu dân ca, dân vũ trong các dịp lễ hội.

Nội dung các lời hát dân ca luôn được lấy từ chính cuộc sống thường ngày, phản ánh chân thực về con người, công việc, về tình yêu, tình thân, về đời sống, những lời răn dạy con cháu... Câu từ dân ca dân tộc Mông đơn giản, chân chất như chính con người miền núi, nhưng rất gần gũi và sâu sắc về ý nghĩa. Trong đó phải kể đến thể loại “gầu plềnh”, làn điệu có nội dung thể hiện rất đa dạng. “Gầu plềnh” có nhiều dạng, vừa là những câu hát giao duyên nam nữ, vừa là những lời ca thể hiện tiếng lòng thương nhớ của đôi bên, hay đơn giản là những khúc hát trữ tình nói về tình yêu, hôn nhân vợ chồng. Những câu hát được lưu truyền bao đời nay với ca từ giản dị mà giàu hình ảnh, thấm đẫm cảm xúc như: “Em nắm tay anh nắm cho vững/ Anh cầm tay em cầm cho chặt/ Ta yêu nhau đằm thắm như khóm ngải xanh tươi”.

Còn tiếng hát cưới xin “gầu xống” và tiếng hát cúng “gầu tùa” lại là một phần quan trọng trong những nghi lễ truyền thống của đồng bào. Những câu hát là lời mở đầu cho câu chuyện trăm năm với những câu từ mộc mạc mà chân thành: “Ông (bà) mối tôi xin thưa/Con gái lớn biết vỡ đám ruộng hoang/Con trai lớn biết vỡ thửa ruộng rậm/Trai lớn biết dựng nhà/Mối mai tôi xin bày tỏ...”. Vẫn cách thể hiện ấy, câu hát còn là một phần không thể thiếu để thay lời thưa với gia tiên, thần linh trong những lễ cúng gia đình, cúng dòng họ, lễ cầu mùa cho làng bản. Câu hát cũng là lời tiễn biệt của người ở lại gửi đến người đã khuất núi. Những dạng dân ca này xuất hiện thường xuyên trong đời sống của đồng bào dân tộc Mông, cho đến nay vẫn được nhiều nơi gìn giữ. Dân ca Mông đặc biệt còn có tiếng hát mồ côi hay tiếng hát than thân “gầu tú giua” là một dạng dân ca mang đặc trưng riêng của dân tộc Mông. Xuất phát từ chính hiện thực cuộc sống, “gầu tú giua” là tiếng hát than thân của những người yếu thế mà chủ yếu là phụ nữ, những người bị hủ tục chèn ép và không được coi trọng trong xã hội cũ trước đây.

Theo Báo Sơn la

 

 

Tags:

Bài viết khác

Cần giữ gìn nét đẹp Lễ cúng sức khỏe của người Ê Đê

Đồng bào dân tộc Ê Đê ở tỉnh Đắk Lắk có nền văn hóa truyền thống đa dạng, phong phú với những lễ hội, phong tục, tập quán độc đáo. Trong đó, Lễ cúng sức khỏe là một nghi thức quan trọng, thể hiện sự tôn kính và hiếu thảo của con cháu đối với ông bà, cha mẹ. Lễ cúng sức khỏe không chỉ là dịp để người Ê Đê bày tỏ lòng thành kính với tổ tiên mà còn là cơ hội để các thành viên trong gia đình, cộng đồng tụ họp, thăm hỏi, chia sẻ niềm vui và cầu chúc cho nhau sức khỏe, hạnh phúc.

Lễ cúng bản của đồng bào Khơ Mú

Lễ cúng bản là một trong những nghi lễ truyền thống quan trọng của dân tộc Khơ Mú ở xã Huổi Một, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La. Lễ cúng bản thường được tổ chức vào đầu năm hoặc sau mỗi mùa vụ để cầu mong bình an, mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu và bản làng yên ổn. Đây không chỉ là một nghi lễ tâm linh mà còn là dịp để cộng đồng gắn kết, thể hiện lòng biết ơn với thần linh và tổ tiên.

Một số nét văn hóa tiêu biểu của dân tộc Kinh

Dân tộc Kinh có những nét văn hòa đa dạng, phong phú, vô cùng đặc sắc và có nền ẩm thực độc đáo, chứa đựng mọi tinh hoa của dân tộc.

Rượu gạo – Nét đẹp văn hóa truyền thống của người Việt Nam

Rượu gạo Việt Nam hay còn gọi là rượu trắng, là một nét đặc trưng của văn hóa và ẩm thực đất nước, được chưng cất từ nguồn gạo phong phú mà đất đai này ban tặng. Rượu thường được sản xuất tại các xưởng gia đình, rượu gạo không chỉ mang lại hương vị đặc trưng mà còn là biểu tượng của sự gắn kết và chia sẻ trong cộng đồng.

Nét độc đáo trong trang phục truyền thống của người Khmer

Việt Nam có 54 dân tộc cùng sinh sống và mỗi dẫn tộc đều có trang phục truyền thống riêng. Tuy nhiên trang phục dân tộc Khmer có lẽ được xem là nổi bật và cầu kỳ nhất, đặc biệt trang phục truyền thống của phụ nữ Khmer Nam bộ mang nét duyên, nét độc đáo không thể lẫn lộn với bất kỳ một trang phục nào khác.

Độc đáo tục rước dâu của người Dao Thanh Y ở Bình Liêu (Quảng Ninh)

Lễ cưới của người Dao Thanh Y ở Bình Liêu (Quảng Ninh) không chỉ là một nghi thức quan trọng trong đời sống hôn nhân, mà còn mang đậm dấu ấn văn hóa truyền thống với nhiều phong tục đặc sắc hiếm thấy ở các dân tộc khác. Trong đó, Lễ rước dâu là phần đặc biệt nhất, thể hiện sự giao thoa giữa tín ngưỡng, phong tục và tinh thần cộng đồng.

Tết Thanh minh của người Dao

Tết Thanh minh không chỉ là dịp để tưởng nhớ tổ tiên mà còn là một nét văn hóa đặc sắc của nhiều dân tộc thiểu số, trong đó có người Dao Quần Chẹt ở các tỉnh Tuyên Quang, Hòa Bình, Vĩnh Phúc. Đây là dịp để con cháu sum vầy, thể hiện lòng thành kính với bậc tiền nhân, đồng thời lưu giữ những phong tục truyền thống.

Nét văn hóa trong trang phục dân tộc H’mông

Nằm trong một quốc gia đa dân tộc, dân tộc H’mông được coi là một thành viên quan trọng trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Cùng với tiếng nói, chữ viết, trang phục cũng là một trong những chi tiết quan trọng đầu tiên để nhận biết và phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Trang phục truyền thống không chỉ mang đậm bản sắc văn hóa, mà còn chứa đựng những giá trị nghệ thuật, giá trị lịch sử của từng tộc người.
Top