banner 728x90

Làng truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số ở Kon Tum

27/02/2025 Lượt xem: 2451

Tỉnh Kon Tum có 7 dân tộc tại chỗ, gồm: Ba Na, Gia Rai, Gié Triêng, Xơ Đăng, Brâu, Rơ Măm và Hrê. Đối với các dân tộc tại chỗ, làng có ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống của họ. Theo thời gian, không gian của các làng đã có sự thay đổi nhưng nhìn chung vẫn còn giữ những nét riêng biệt vốn có, tạo nên một không gian văn hóa độc đáo.

Mỗi làng của đồng bào dân tộc thiểu số là một đơn vị cộng cư thống nhất, được thiết lập chủ yếu dựa trên các mối quan hệ cơ bản về huyết thống, cùng thành phần dân tộc

Trong xã hội cổ truyền của dân tộc tại chỗ ở Kon Tum chỉ tồn tại duy nhất một tổ chức xã hội đó là làng. Mỗi làng là một đơn vị cộng cư thống nhất, được thiết lập chủ yếu dựa trên các mối quan hệ cơ bản về huyết thống, hôn nhân, cùng thành phần dân tộc, có cùng quyền lợi và cùng chia sẻ trách nhiệm. Trước đây, việc chọn vị trí lập làng là việc hệ trọng của cả cộng đồng, nên khi chọn vị trí để lập làng mới bao giờ cũng được xem xét kỹ lưỡng các điều kiện có liên quan thiết yếu đến đời sống trực tiếp cộng đồng.

Ông A Jar, làng Plei Đôn, phường Quang Trung, Tp. Kon Tum là người có nhiều năm nghiên cứu, sưu tầm về văn hóa của các dân tộc tại Kon Tum cho biết: Ngày xưa, khi tìm vị trí để lập làng thì điều kiện trước tiên là phải có nguồn nước. Vị trí làng thường được chọn ở nơi cao ráo, thoáng, đất bằng phẳng, dễ di chuyển, nhằm bảo vệ dân làng trước sự đe dọa của kẻ thù từ bên ngoài và thú dữ. Mỗi dân tộc có cách chọn vị trí lập riêng, phù hợp với điều kiện văn hóa, như dân tộc Ba Na và Gia Rai thường chọn vị trí lập làng ở những khu vực gần sông, suối; dân tộc Xơ Đăng chọn vị trí lập làng ở lưng chừng đồi, núi.

Người Ba Na thường chọn vị trí gần các con sông, suối để lập làng

Tên làng của đồng bào dân tộc thiểu số ở Kon Tum cũng có nét độc đáo riêng, thường được lấy theo tên một loài cây có nghĩa đặc trưng gắn liền với nơi cư trú; gắn với nguồn nước, thường là suối, hồ, ao; xuất phát từ một câu chuyện mang tính huyền thoại hoặc một truyền thuyết.

Ông A Jar cho hay: Tên của làng gắn bó máu thịt với mỗi con người và cả cộng đồng, không dễ dàng mất đi. Vì vậy, khi tách ra thành lập làng mới, nhưng cái tên làng cũ vẫn được giữ và thêm vào đó một thành tố nào đó mang đặc điểm của làng mới, chẳng hạn như làng Kon Mơ Nay được tách ra thêm một làng nữa gọi là làng Kon Mơ Nay Sơ Lam; chẳng hạn làng Kon Hngo là sống bên suối nhưng mà xung quanh có rất nhiều cây thông, cây thông tên gọi là Hngo.

Nhà rông của người Gié Triêng ở làng Đăk Wâk, xã Đăk Kroong, huyện Đăk Glei vẫn giữ được nét nguyên bản ngày xưa

Theo tâm niệm của đồng bào các dân tộc thiểu số đã có làng là phải có nhà rông. Làng nào không có nhà rông thì làng đó thiếu sức sống cội nguồn. Nhà rông bao quát mọi tinh hoa văn hóa sáng tạo của con người trong môi trường sinh thái tự nhiên, vừa hùng vĩ vừa tiềm ẩn những yếu tố tâm linh, là biểu hiện của văn hóa rừng và sự cố kết cộng đồng người gắn với thiên nhiên. Về kiến trúc thì nhà rông của mỗi dân tộc có sự khác nhau, theo tập quán của từng dân tộc, nhưng nếu nói về quy mô to cao thì phải kể đến nhà rông của dân tộc Ba Na, Gia Rai, Xơ Đăng, Gié Triêng.

Già làng A Thông (dân tộc Gié Triêng), làng Đăk Wâk, xã Đăk Kroong, huyện Đăk Glei cho biết: Nhà rông hùng vĩ vươn lên bầu trời với hình dáng như một lưỡi rìu khổng lồ biểu hiện sức mạnh của một cộng đồng làng, thể hiện tinh thần thượng võ, đầy quyền uy, như là chế ngự không gian và thời gian để khẳng định chủ quyền, lãnh địa của làng. Thường thì vị trí của nhà rông bao giờ cũng nằm hài hòa với các ngôi nhà ở xung quanh, phía trước có khoảng sân rộng để tổ chức các lễ hội dân gian truyền thống và sinh hoạt cộng đồng.

Với sự quan tâm của chính quyền địa phương, nhiều làng đồng bào DTTS ở tỉnh Kon Tum đã làm du lịch cộng đồng

Ngày nay, trong quá trình hội nhập và phát triển, các làng đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Kon Tum không còn giữ được nét nguyên sơ như trước đây. Nhưng hiện hữu trong mỗi làng vẫn còn đó những giá trị văn hóa độc đáo và đặc sắc mà mỗi người, mỗi nhà đều gìn giữ, xem đó như là món ăn tinh thần, là văn hóa truyền thống để tiếp tục gìn giữ và phát huy cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội phát triển như hiện nay.

Nhiều làng đã được công nhận là làng du lịch cộng đồng, như: Làng Kon Kơ Tu, làng Kon Jơ Ri, xã Đăk Rơ Wa, Tp. Kon Tum; làng Vi Rơ Ngheo, xã Đăk Tăng, huyện Kon Plông; làng Kon Trang Long Loi, thị trấn Đăk Hà, huyện Đăk Hà; làng Đăk Răng, xã Đăk Dục, huyện Ngọc Hồi... Tại các làng này vẫn duy trì những đội cồng chiêng truyền thống, nghề dệt thổ cẩm, nấu rượu cần hay các nghi lễ tín ngưỡng có liên quan, người dân cũng bắt đầu mạnh dạn và dần làm quen với việc đón khách du lịch đến với thôn, làng của mình tham quan và trải nghiệm. Đây chính là động lực để đồng bào dân tộc thiểu số tiếp tục làm tốt hơn nữa công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.

Nguồn: Báo Dân tộc và Phát triển

 

 

Tags:

Bài viết khác

Độc đáo Lễ cưới “ Dứ bà đù” của người Hà Nhì đen (Lào Cai)

Trên mảnh đất biên cương Y Tý, Lào Cai, người Hà Nhì đen vẫn gìn giữ nhiều phong tục truyền thống độc đáo, trong đó lễ cưới “Dứ bà đù” được xem là một nét văn hóa tiêu biểu, phản ánh rõ bản sắc dân tộc và đời sống tinh thần của họ.

Vang danh nghề gốm Lái Thiêu (Bình Dương)

Bình Dương được thiên nhiên ưu đãi có nguồn khoáng sản đất sét và cao lanh rất phù hợp cho nghề làm gốm. Trong những làng gốm ở Bình Dương thì làng gốm Lái Thiêu đã nổi danh trong và ngoài nước bởi sự mộc mạc nhưng không kém phần tinh tế và đậm chất Nam bộ.

Rắn trong tâm thức người Quảng Ngãi

Trong những câu chuyện dân gian của người Quảng Ngãi, hình tượng rắn hiện lên muôn hình, muôn vẻ. Rắn có lúc được người xưa thần thánh hóa và tôn thờ, đi vào đời sống tâm linh; có lúc lại trở thành biểu tượng của cái ác, gieo rắc nỗi sợ hãi cho con người.

Nét đặc trưng của trang phục dân tộc Thái ở Việt Nam

Trang phục không chỉ là y phục hàng ngày mà còn là phần không thể thiếu trong các dịp lễ hội, thể hiện văn hóa và tâm linh của người Thái. Mỗi chi tiết trên trang phục đều mang ý nghĩa riêng và thể hiện sự kính trọng văn hóa truyền thống.

Đám giỗ Miền Tây – Nét đẹp văn hóa của người dân Miền Tây

Đám giỗ miền tây… tràn đầy tình cảm, đó chính là câu nói mà ai cũng sẽ nhắc khi nói về đám giỗ miền quê. Người miền Tây quan niệm rằng đám giỗ không chỉ là dịp để tưởng nhớ người đã khuất mà còn là dịp để bà con, hàng xóm láng giềng quây quần, cùng nhau sẻ chia những câu chuyện trong cuộc sống và thắt chặt thêm tình làng nghĩa xóm.

Đền thờ ông bà Đỗ Công Tường – Cao Lãnh – Đồng Tháp

Đền thờ và mộ ông bà Đỗ Công Tường rất cổ kính, trang nghiêm tọa lạc trên đường Lê Lợi, phường 2, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Đền thờ chủ chợ Cao Lãnh nổi tiếng linh thiêng khắp vùng. Đặc biệt là với giới kinh doanh làm ăn buôn bán nên đã trở thành địa điểm du lịch tâm linh thu hút đông đảo người dân khắp nơi về đây tham quan chiêm bái.

Tục cưới hỏi của dân tộc Tày

Đám cưới thường được tổ chức vào lúc chiều tối (tầm 4 -5 giờ trở đi). Cưới vào giờ này không ảnh hưởng đến công việc trong ngày của mọi người, người ở xa mấy núi cũng đến kịp. Hơn nữa, mọi người sẽ có thời gian ở chơi lâu hơn. Tiệc cưới được chia làm hai tiệc. Tiệc thứ nhất dành cho người lớn tuổi, bậc cha chú, anh em họ hàng. Tiệc thứ hai dành cho nam nữ thanh niên, bạn bè gần xa của cô dâu chú rể.

Cần giữ gìn nét đẹp Lễ cúng sức khỏe của người Ê Đê

Đồng bào dân tộc Ê Đê ở tỉnh Đắk Lắk có nền văn hóa truyền thống đa dạng, phong phú với những lễ hội, phong tục, tập quán độc đáo. Trong đó, Lễ cúng sức khỏe là một nghi thức quan trọng, thể hiện sự tôn kính và hiếu thảo của con cháu đối với ông bà, cha mẹ. Lễ cúng sức khỏe không chỉ là dịp để người Ê Đê bày tỏ lòng thành kính với tổ tiên mà còn là cơ hội để các thành viên trong gia đình, cộng đồng tụ họp, thăm hỏi, chia sẻ niềm vui và cầu chúc cho nhau sức khỏe, hạnh phúc.
Top