banner 728x90

Các nghi lễ ở đình

21/06/2024 Lượt xem: 3800

Một trong những chức năng quan trọng của ngôi đình là nơi cúng lễ hằng năm. Ngoài ngày mồng một (lễ sóc) và ngày rằm (lễ vọng), người ta cúng lễ các Thành hoàng ở đình vào ngày đầu tháng của tháng 2, tức ngày Xuân tế, ngày đầu của tháng 8, tức Thu tế, ngày lễ Hạ điền (ngày xuất ruộng cấy lúa) và Thượng điền (cây lúa xong), ngày lễ Thường tân (nếm vật mới), tức ngày cơm mới vào tháng chín, ngày Thượng nguyên (rằm tháng giêng), tức lễ Kỳ yên và ngày Trung nguyên (rằm tháng bảy), tức ngày xá tội vong nhân, ngày mồng bảy tháng giêng làm lễ Khai ấn, tức ngày bắt đầu vào công việc thường năm.

Tế thần - Nghi lễ thờ cúng Thành hoàng tại đình

Người ta còn cúng thân vào các lễ tiết khác hằng năm: Hàn thực (3/3), Đoan ngọ (5/5), Trung thu (15/8), Lạp tiết (12/12). Ngoài ra, khi dân làng có sự bất thường: tang lễ, đám cưới, khao vọng… đều phải có đèn nhang cúng Thành hoàng.

Ngày lễ hội quan trọng nhất của một năm là ngày vào đám – vào hội. Đó là dịp vào mùa xuân hay mùa thu hay ngày sinh nhật, kỵ nhật của Thành hoàng. Trước khi vào hội, người ta phải làm lễ nhập tịch. Từ ngày nhập tịch đến ngày hội có thể kéo dài ngày. Trong khoảng thời gian đó, cả làng phải thực hiện một số kiêng kỵ, nhất là không được có tang lễ. Nếu làng có người chết thì phải chôn cất giấu hay quàn xác qua thời gian hội làng mới được phát tang.

Trong những ngày hội làng, người ta tiến hành nghi lễ rược thần từ nghè tới đình hay từ đình tới chùa hay đền, điều đó tùy thuộc vào mối quan hệ giữa các nơi thờ cúng đó của làng: đình – đền – chùa. Cũng có thể có hình thức rước giao hiếu giữa các đình của làng kề cận, nếu như họ có cúng Thành hoàng hay các Thành hoàng đó có mối quan hệ thân thuộc nào đó.  Nghi thức quan trọng nhất của hội làng là tế. Người ta thường phân biệt giữa lễ và tế. Lễ là nghi thức cúng lễ theo như lịch trình hàng tháng hằng năm đã nêu trên, còn tế là nghi lễ chỉ thực hiện vào dịp hội làng; lễ tế Xuân và lễ tế Thu.

Tế được quy định nghiêm ngặt, đòi hỏi tổ chức chặt chẽ, huy động nhiều người cùng phối hợp thực hiện. Trước nhất là cúng tế, hai bồi tế; đông xướng và tây xướng, các chấp sự (tức người phục vụ cho chủ tế việc dâng  hương, rượu trong khi tế). Số người chấp sự có thể từ 2 – 8 người, càng đông cuộc tế càng lớn và long trọng. Những người tham gia tế ăn mặc theo quy cách riêng; mặc áo dài xanh, mũ có dải, đi giày vải hoặc nhung. Những năm gần đây phổ biến đội tế nữ quan, mặc áo dài vàng hay đỏ, đội khăn dây quấn trên đầu.

Trước bàn thờ diễn ra cuộc tế có trải 3 chiếc chiếu; chiếu gần bàn thờ là chiếu dâng rượu và đọc lời nguyện cầu, chiếu thứ hai dành cho ẩm phúc (uống phúc), chiếu thứ ba dành cho chủ tế đứng khi làm lễ. Các bồi tế đứng sau chủ tế, các chấp sự chia thành hai nhóm đứng bên phải và trái chủ tế. Đông xướng và tây xướng đứng hai bên hướng mặt vào chủ tế. Mọi hành động của người hành lễ phải nhất nhất tuân theo lời của Đông xướng hô to và Tây xướng lặp lại. Việc lễ lạy trước bàn thờ cũng phải theo đúng quy cách: 10 lạy, 3 lần dâng rượu, 4 lạy rước thần…

Ông Nguyễn Văn Khoan trong công trình: phác thảo về Đình và sự thờ phụng thần Thành hoàng của các làng ở Bắc kỳ đã liên tục kê ra 48 nghi thức nối tiếp nhau của một lễ tế. Là nghi thức tôn vinh thần Thành hoàng, thường một buổi tế như vậy kéo dài nhiều giờ, luôn luôn giữ vẻ thành kính, trang nghiêm, không được để điều gì sơ suất. Có những cuộc hội làng không chỉ có một cuộc tế, mà có thể có nhiều cuộc tế, tùy theo cơ cấu tổ chức xã hội của làng. Trong cuộc tế, nhạc tế chủ yếu chỉ dùng trống và chiêng. Sau khi kết thúc các nghi lễ thờ cúng, các quan viên của làng tổ chức ăn uống. Tuy nhiên, việc sắp xếp các quan viên vào cỗ cũng phải theo tuổi tác và ngôi thứ.

Ban Nghiên cứu Tôn giáo

 

Tags:

Bài viết khác

Chiếc chiếu trong đời sống văn hóa tinh thần người Nam Bộ

Từ bao đời nay, chiếc chiếu đã trở thành vật dụng quen thuộc và gần gũi trong sinh hoạt của cư dân Nam Bộ. Trên vùng đất mới, nơi nhiều cộng đồng dân tộc cùng quần tụ, con người đã biết khai thác cây lác để dệt nên những tấm chiếu phục vụ đời sống hằng ngày. Theo thời gian, nghề dệt chiếu phát triển, cho ra đời nhiều sản phẩm phong phú, bền đẹp hơn, gắn bó sâu sắc với đời sống vật chất lẫn tinh thần của cư dân nơi đây.

Tây Bắc: Nơi hội tụ sắc màu văn hóa các dân tộc

Văn hóa Tây Bắc là sự giao thoa của thiên nhiên hùng vĩ với bản sắc độc đáo của nhiều cộng đồng dân tộc. Từ phong tục, lễ hội, âm nhạc đến ẩm thực, mỗi dân tộc nơi đây đều góp phần tạo nên bức tranh văn hóa đa dạng và giàu bản sắc.

Biểu tượng Neak trong văn hóa Khmer

Neak là một loại biểu tượng có mặt hầu hết trong các văn hóa kiến trúc của người Khmer Nam Bộ. Nó vừa tượng trưng cho sự linh thiêng về mặt tôn giáo vừa thể hiện ước muốn của con người thông qua sự mong cầu từ thế giới tâm linh mà con người gửi gắm.

Cỗ lá – nét ẩm thực độc đáo trong văn hóa người Mường

Cỗ lá là một nét ẩm thực truyền thống đặc sắc, được đồng bào Mường gìn giữ và lưu truyền qua nhiều thế hệ. Với người Mường, cỗ lá không chỉ là bữa ăn, mà còn là biểu tượng sinh động của văn hóa, thể hiện tinh thần cộng đồng và bản sắc dân tộc.

Ẩm thực Chăm An Giang: Đậm đà bản sắc giữa lòng sông Hậu

Người Chăm ở miền Tây Nam Bộ chủ yếu sinh sống tập trung trên cù lao Châu Giang (An Giang), bên dòng sông Hậu hiền hòa. Nơi đây không chỉ nổi tiếng với những ngôi thánh đường Hồi giáo uy nghi mà còn hấp dẫn du khách bởi nền ẩm thực độc đáo, mang đậm bản sắc dân tộc.

Sắc màu văn hóa người Giẻ Triêng

Dân tộc Giẻ Triêng, cư trú chủ yếu ở các tỉnh Kon Tum và Quảng Nam (nay là Quảng Ngãi, Đà Nẵng), sở hữu một nền văn hóa dân gian phong phú, đậm đà bản sắc vùng Bắc Tây Nguyên. Trong kho tàng văn hóa ấy, trang phục truyền thống của người Giẻ Triêng nổi bật như một dấu ấn thẩm mỹ độc đáo, thể hiện gu thẩm mỹ tinh tế, không thể nhầm lẫn với bất kỳ dân tộc nào khác.

Đình Minh Hương- Dấu ấn giao thoa văn hóa người Hoa ở Chợ Lớn -Tp.Hồ Chí Minh

Đình Minh Hương, còn gọi là Hội quán Minh Hương Gia Thạnh, là một trong những ngôi đình cổ nhất tại Thành phố Hồ Chí Minh. Công trình không chỉ mang giá trị lịch sử, tín ngưỡng của cộng đồng người Hoa gốc Minh Hương mà còn là di sản quý về kiến trúc, điêu khắc và thư pháp – biểu trưng cho sự giao thoa văn hóa Việt – Hoa trên vùng đất Sài Gòn xưa.

Đền Chín Gian – Biểu tượng tâm linh và bản sắc người Thái ở Thanh Hóa

Trên đỉnh núi Pú Pỏm, xã Thanh Quân, tỉnh Thanh Hóa, ngôi Đền Chín Gian sừng sững giữa thảm rừng đại ngàn, là chốn linh thiêng lưu giữ niềm tin và bản sắc của cộng đồng người Thái qua nhiều thế hệ. Đây không chỉ là công trình văn hóa, mà còn là biểu tượng kết nối giữa đất – trời, người – thần linh và con cháu với tổ tiên.
Top