banner 728x90

Bài 1: Phú Mỹ xưa và nay

26/04/2024 Lượt xem: 3152

          Thị xã Phú Mỹ, nằm dọc theo quốc lộ 51, thuộc cửa ngõ tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu xưa kia thuộc tổng Phước An, huyện Phước Long, dinh Trấn Biên, được xác định địa giới hành chính từ năm 1698 cùng lúc với những vùng đất khác ở Nam bộ, nhưng mới được khai phá, mở mang và phát triển mạnh trong khoảng hơn 100 năm trở lại.

          Năm 1698, khi chúa Nguyễn Hiển Tông Hiếu Minh Hoàng đế chính thức cắt đặt và thành lập các đơn vị hành chính ở Nam bộ thì Phú Mỹ thuộc tổng Phước An, huyện Phước Long, dinh Trấn Biên. Huyện Phước Long có 4 tổng, đó là Long Thành, Phước An, Bình An và Phước Chánh, trong đó tổng Phước An bấy giờ có địa giới tương đương với tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu ngày nay. Vào thời điểm ấy, Phú Mỹ là địa bàn cư trú của người Châu Ro bản địa.

          Tháng 10 năm 1779, Nguyễn Ánh cho họa địa đồ chia cắt địa giới ba dinh Trấn Biên (Biên Hòa), Phiên Trấn (Gia Định) và Long Hồ (Vĩnh Long, An Giang) cho liên lạc nhau. Năm 1800, đổi Gia Định phủ làm Gia Định trấn, gồm 5 dinh: Trấn Biên, Phiến Trấn, Vĩnh Trấn, Trấn Định, Trấn Hà Tiên. Cuối thế kỷ 18, vùng Mô Xoài - Bà Rịa đã có hơn 40 làng xã thôn, tập trung trong 7 tổng, số dân lên đến hàng vạn người, trong đó người các dân tộc thiểu số vẫn còn nhiều, chiếm khoảng một phần ba, sinh sống vùng núi phía Bắc, từ Phú Mỹ qua các huyện Châu Đức, Xuyên Mộc ngày nay.

Con đường cạnh đình Phước Lễ, trung tâm hạt Bà Rịa thập niên 1920, nay là thành phố Bà Rịa.

          Ngày 12 tháng Giêng năm Mậu Thìn (1808), nhà Nguyễn đổi Gia Định trấn làm Gia Định thành cai quản 5 trấn, đổi Dinh Trấn Biên làm trấn Biên Hòa, thăng huyện Phước Long làm phủ. Bốn tổng trước đây được nâng thành 4 huyện, trong đó huyện Phước An có hai tổng An Phú và Phước Hưng. Phú Mỹ thuộc tổng An Phú. Tổng An Phú đầu thế kỷ 19 (1808-1820) có 21 xã, thôn, ấp.

          Năm 1836, huyện Phước An được nâng lên 4 tổng – tách đôi từ hai tổng An Phú và Phước Hưng thành An Phú Hạ, An Phú Thượng, Phước Hưng Hạ và Phước Hưng Thượng. Địa bàn Phú Mỹ ngày nay thuộc tổng An Phú Hạ. Tổng này có 8 thôn: Đại Thuận, Long Hiệp, Long Hương, Long Kiên, Long Lập, Long Xuyên, Phước Lễ, Phước Long.

          Những tư liệu hiện có chưa đủ để xác định địa phận Phú Mỹ thuộc những làng nào trong số 8 làng kể trên. Tuy nhiên, tra trong Địa bạ về ruộng đất thực canh của tổng An Phú Hạ không thấy có địa danh nào thuộc vùng đất Phú Mỹ ngày nay có ghi diện tích thực canh. Diện tích thực canh của cả tổng An Phú Hạ cũng chỉ xấp xỉ 626 mẫu, 8 sào, 8 thước, 8 tấc. Trong đó các làng xã thuộc địa bàn Bà Rịa ngày nay chiếm 410 mẫu, 4 sào. Thôn Đại Thuận chưa có ruộng đất thực canh, thôn Phước Long có hơn 99 mẫu, thôn Long Hiệp 37 mẫu. Từ đó có thể thấy rằng cho đến khoảng giữa thế kỷ 19 vùng đất này vẫn chưa được khai phá, hoặc nếu có khai phá thì cũng chưa đáng kể và chưa nằm trong sự quản lý của nhà nước phong kiến.

          Năm 1837, nhà Nguyễn đặt thêm phủ Phước Tuy. Vùng đất Tân Thành thuộc tổng An Phú Hạ, huyện Phước An, phủ Phước Tuy, tỉnh Biên Hòa. Năm 1855, huyện Phước An có 4 tổng, 42 xã, thôn.

          Năm 1867, thực dân Pháp chia tỉnh Biên Hòa thành 5 địa hạt tham biện. Phú Mỹ thuộc hạt Bà Rịa. Một số thôn ở tổng An Phú Hạ được nâng lên thành xã, nhưng về số lượng, An Phú Hạ cũng chỉ có 8 xã thôn. Ngày 5/01/1876, thực dân Pháp bãi bỏ lục tỉnh, chia Nam kỳ thành 4 khu vực với 19 hạt và 2 thành phố (bấy giờ người Thượng ở hạt Bà Rịa chỉ còn khoảng 1.535 người). Phú Mỹ thuộc hạt Bà Rịa (hạt này có 7 tổng, 64 làng, 6 nhà trạm, 1 trường học và 7 chợ). Năm 1889, thực dân Pháp lại đổi hạt thành tỉnh.

Đình Phước Lễ, một di tích lịch sử nổi tiếng của Bà Rịa.

          Đến đầu thế kỷ 20 (1901), tổng An Phú Hạ tăng thêm 7 thôn mà chủ yếu là những thôn mới thuộc địa bàn Phú Mỹ ngày nay. Đây cũng là lần đầu tiên chúng ta thấy trong thư tịch xuất hiện các địa danh quen thuộc của Phú Mỹ mà vẫn còn tồn tại đến ngày nay. 15 làng của tổng An Phú Hạ lúc ấy là: Long Lập, Long Hương, Long Kiên, Long Hiệp, Long Nhung, Long Xuyên, Phước Hữu, Phước Lễ, Núi Nứa và các làng thuộc địa bàn Phú Mỹ ngày nay: Hội Bài, Mỹ Xuân, Phước Hòa, Phước Hội, Phước Thạnh, Thạnh An. Còn địa phận các xã Châu Pha, Sông Xoài, Tóc Tiên, Hắc Dịch bấy giờ thuộc làng Hích Dịch tổng An Trạch.

          Điều đặc biệt là đầu thế kỷ 20 (1915), cùng với sự gia tăng dân số, ở tỉnh bà Rịa-Vũng Tàu đã hình thành những trung tâm dân cư mới và buôn bán phồn thịnh mà tài liệu của người Pháp cho biết đó là Chợ Bến, Long Hải, cầu Thị Vải và Xuyên Mộc. Địa bàn cầu Thị Vải là một trong bốn trung tâm dân cư và buôn bán lớn nhất trong những năm đầu thế kỷ 20 của tỉnh Bà Rịa. Lúc này tỉnh Bà Rịa đã có 9 tổng, 68 làng, số làng tăng lên chủ yếu ở địa bàn Phú Mỹ và vùng núi phía Bắc.

(còn nữa…..)

Đào Quốc Thịnh

 

Tags:

Bài viết khác

Thành cổ Diên Khánh - Chứng nhân lịch sử của thời mở cõi phương Nam

Cách trung tâm thành phố Nha Trang khoảng 10 km về phía tây, thành cổ Diên Khánh (thuộc xã Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa) vẫn lặng lẽ đứng đó như một chứng nhân của thời mở cõi, gắn liền với những bước chân khai phá về phương Nam hơn hai thế kỷ trước. Dẫu trải qua bao biến thiên của lịch sử, công trình vẫn giữ nguyên vẻ uy nghi, cổ kính, là minh chứng sống động cho một giai đoạn hình thành và phát triển của vùng đất Khánh Hòa xưa.

Láng Le – Bàu Cò: Dấu son bất diệt của đất anh hùng

Giữa vùng đất phía Tây Nam, nơi dòng chảy hiện đại hòa cùng ký ức lịch sử hào hùng, Láng Le – Bàu Cò (xã Tân Nhựt, Tp. Hồ Chí Minh) vẫn là biểu tượng bất diệt của tinh thần yêu nước và lòng kiên trung của người dân Nam Bộ.

Đình Thoại Ngọc Hầu và Bia Thoại Sơn: Dấu ấn lịch sử trên vùng đất huyền thoại

Thoại Sơn (An Giang) là vùng đất nổi bật với địa hình đa dạng và nhiều danh lam thắng cảnh như hồ Ông Thoại, núi Ba Thê, Linh Sơn Tự, tượng Phật bốn tay, bàn chân Tiên... Trong đó, đình Thoại Ngọc Hầu là một di tích đặc biệt về mặt lịch sử – văn hóa, gắn liền với danh thần Thoại Ngọc Hầu, người có công lớn trong việc khai phá và phát triển vùng đất phương Nam dưới triều Nguyễn.

Chùa Linh Sơn Bửu Thiền: Dấu ấn văn hóa hơn 200 năm trên đỉnh núi Thị Vải

Ẩn mình giữa núi rừng hùng vĩ ở độ cao hơn 400m so với mực nước biển, chùa Linh Sơn Bửu Thiền tọa lạc tại phường Phú Mỹ, TP.HCM (trước đây thuộc phường Phú Mỹ, TP.Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu) là một trong những ngôi cổ tự có giá trị văn hóa – tâm linh đặc sắc tại Đông Nam Bộ. Không chỉ nổi bật bởi kiến trúc độc đáo, chùa còn lưu giữ giai thoại về vua Gia Long, góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn hóa – lịch sử dân tộc.

Bài 2: Dòng họ Trịnh Bá Yên Lộ đồng hành cùng sự phát triển của dân tộc

Từ rất xa xưa, làng Yên Lộ có bốn họ: Trịnh, Đinh, Đỗ, Lưu về đây sinh sống, thấy mảnh đất trù phú, tốt tươi đã cùng nhau xây dựng lập lên làng Yên Lộ

Bài 1: Làng Yên Lộ trong dòng chảy lịch sử dân tộc

Làng Yên Lộ, Yên Nghĩa, Hà Nội (xưa là An Lộ trang, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên, trấn Sơn Nam) nằm trong “Tam Lộ, Ngũ Lãm” là một trong những làng Việt cổ đại (Kẻ Yên – Kẻ Tuân – Kẻ Do – Kẻ Nghĩa – Kẻ Sốm được hình thành với quá trình dựng nước của dân tộc từ thủa các Vua Hùng) cách Ba La Bông Đỏ chừng 2 km, ngụ bên bờ trái đoạn thượng nguồn dòng Hát Giang nay là sông Đáy thuộc châu thổ sông Hồng.

Chiến khu Đ – Di tích quốc gia đặc biệt giữa rừng Mã Đà (Đồng Nai)

Nằm giữa vùng rừng nguyên sinh Mã Đà, xã Trị An, tỉnh Đồng Nai (trước đây thuộc huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai), Chiến khu Đ là một trong những di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia đặc biệt của Việt Nam. Đây từng là căn cứ địa chiến lược trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, nơi hun đúc tinh thần yêu nước, kiên cường của quân dân miền Đông Nam Bộ.

Chùa Việt Nam Quốc Tự: Biểu tượng lịch sử của Phật giáo Việt Nam đương đại

Chùa Việt Nam Quốc Tự không chỉ là công trình tôn giáo mang đậm dấu ấn kiến trúc Phật giáo Bắc Tông tại TP.Hồ Chí Minh, mà còn là biểu tượng gắn liền với một giai đoạn đấu tranh lịch sử đầy biến động của Phật giáo Việt Nam vào đầu thập niên 1960. Sự ra đời, trùng tu và phát triển của ngôi chùa này phản ánh những chuyển biến quan trọng trong mối quan hệ giữa Phật giáo và xã hội Việt Nam hiện đại.
Top