banner 728x90

Bài 2: Dòng họ Trịnh Bá Yên Lộ đồng hành cùng sự phát triển của dân tộc

21/10/2025 Lượt xem: 2386

Từ rất xa xưa, làng Yên Lộ có bốn họ: Trịnh, Đinh, Đỗ, Lưu về đây sinh sống, thấy mảnh đất trù phú, tốt tươi đã cùng nhau xây dựng lập lên làng Yên Lộ: Theo tài liệu được ghi chép lại từ tài liệu của cố Giáo sư Sử học Văn Tân (do cụ Trịnh Bá Bổng cung cấp), vào thế kỷ thứ III trước Công nguyên, Triệu Đà đánh bại An Dương Vương thôn tính nước Âu Lạc, tướng Phạm Gia của An Dương Vương đã trốn về phía Tây cùng 4 cụ (Trịnh Huân, Đỗ Đức Tiến, Đinh Đức Lượng và Lưu Quy) lập trại Cái Chuôm ở ven sông Đáy, cách bờ sông khoảng nửa dặm là núi Tử Trầm và về sau đã phát triển hình thành làng Yên Lộ (Kẻ Yên) trên bến dưới thuyền, từng buôn bán sầm uất có nghề tằm tơ nổi tiếng trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải đã đi vào ca dao cổ:

“Hỡi cô thắt lưng bao xanh

Có về Yên Lộ với anh thì về

Yên Lộ có cội bồ đề

Sông Đáy uốn khúc có nghề tằm tơ”.

Chúng tôi có dịp về tìm hiểu sưu tầm, nghiên cứu: Bản dịch (viết bằng chữ Hán Nôm) trên bảng gỗ tại nhà thờ họ Trịnh Bá còn lưu giữ được (do Tiến sĩ Nguyễn Đạt Thức ở Cục Di sản văn hóa thuộc Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) – Bản dịch viết trên bảng gỗ được biên chép lại ngày 9 tháng 12 năm Tự Đức thứ 10 (1857) – Khi đó có sự chứng kiến, giúp đỡ, cung cấp tư liệu của ông Trịnh Bá Tuấn (sinh năm 1955, làm Chủ tịch Hội đồng gia tộc họ Trịnh Bá) cùng các ông: Trịnh Bá Nam (sinh năm 1939, là hội viên hội CCB Việt Nam về địa phương nhiều năm làm Chủ nhiệm HTXNN xã Yên Nghĩa), Trịnh Bá Sướng (sinh năm 1952, Hội viên Hội Nhà văn, Chiến sỹ Bảo vệ thành cổ Quảng Trị 81 ngày đêm năm 1972, Ủy viên Ban Liên lạc Sư đoàn 308 Quân Tiên Phong, hiện là Thương binh, Hội viên hội CCB), Trịnh Bá Anh (Trưởng Chi Nhánh 2), Trịnh Bá Vang (từng làm Chủ nhiệm HTXNN xã Yên Nghĩa) tại nhà thờ ông Trịnh Bá Chinh (sinh năm 1970, Trưởng Tộc họ Trịnh Bá làng Yên Lộ) được dịch: “Ngày 9 tháng 12 năm Tự Đức thứ 10 (1857), dòng họ Trịnh ở xã Yên Lộ kính cẩn biên chép tên tuổi, ngày giỗ, mộ phần của các cụ Tổ tiên theo thứ tự như sau:

Tổ khảo Trịnh Quý Công, tự là Đạo Chính, an táng tại xứ Đống Bằng trên diện tích 2 sào 10 thước, giỗ ngày 2 tháng 2

Tổ tỉ họ Nguyễn, hiệu là Từ Vinh, an táng tại xứ Bến, giỗ ngày 22 tháng 12

Tổ khảo Trịnh Lệnh Công, tự là Thuần Hiền, an táng tại xứ Con Rồng, giỗ ngày 16 tháng 11

Đường thúc (chú) Trịnh Bá Thùy, giỗ ngày 5 tháng 3

Tổ khảo Trịnh Lệnh Công, tự Trực Hòa, an táng tại xứ Con Rồng, giỗ ngày 17 tháng 4

Ghi chép về các ngày giỗ (ghi theo âm lịch):

- Giỗ tại nhà Văn Thu ngày 26 tháng 5, ngày 22 tháng 9, ngày 24 tháng 8, ngày 24 tháng 3 và dịp tết Nguyên đán.

- Giỗ tại nhà bà Chín ngày 30 tháng 6, ngày 30 tháng 7 và dịp tết Nguyên đán.

- Giỗ tại nhà Văn Thức ngày 3 tháng 12, ngày 11 tháng 2 và dịp tế Nguyên đán”.

Làng Yên Lộ có truyền thống đoàn kết, đặc biệt dòng họ Trịnh luôn gắn bó thực hiện giữ gìn các phong tục tập quán của làng từ ngàn xưa để lại: Bản “Phong tục làng Yên Lộ” được ban hành ngày? tháng tư năm Duy Tân 4 (1910) Do kỳ mục Nguyễn Văn Nhượng ký – Lý trưởng Trịnh Bá Vỹ áp triện với nội dung “Kỳ mục Lý dịch làng Yên Lộ, tổng La Nội kính cẩn đem các khoản phong tục trong làng kê khai ra”. Thứ nhất (Hình mục tức mục xử phạt) có 4 điều (Đánh nhau, Thông dâm, Vi phạm khoán ước của dân, Khám xét án mạng). Thứ hai (Hộ mục tức mục hộ dân) có 6 điều (Tiền nợ, Hội thu cấp, Lệ nộp tiền lan giai, Ly dị, Thu thóc trông đồng, Phân chia công điền công thổ). Thứ ba (Chính trị) có 4 điều (Hội họp kỳ mục bàn định việc làng, Bầu chọn kỳ mục lý dịch, Phận sự của kỳ mục, Tu bổ cầu cống đường xá). Thứ tư (Phong tục) có 10 điều (Tế tự, Lệ khao vọng những người thi đỗ cử nhân tú tài hoặc được ban phẩm hàm chức tước hoặc làm tổng lý, Mua ngôi thứ trong dân, Chia đều lộc thánh, Kỳ lý còn tại chức, Cấp ruộng cho binh lính, Hôn lễ, Tang lễ, Lệ đối với người già, Ngôi thứ chốn đình trung).

Họ Trịnh ở làng Yên Lộ có nhiều đóng góp lớn trong việc điều hành và phát triển kinh tế, văn hóa ở làng Yên Lộ nói riêng và cả vùng Thăng Long Hà Nội từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 18 và đặc biệt trong thời đại Hồ Chí Minh ngày nay. Họ Trịnh Bá là một họ bản địa Việt Nam đã có mặt từ thời Hùng Vương dựng nước, với nhiều bậc tiền nhân như cụ Trịnh Huân, Trịnh Ra, Trịnh Tú và các tướng lĩnh trong khởi nghĩa Lam Sơn. Con cháu họ Trịnh Bá ở Yên Lộ có quyền tự hào về những đóng góp của cha ông vào sự nghiệp chung của dân tộc, đặc biệt là trong những giai đoạn khó khăn của xã hội phong kiến Đại Việt.

Họ Trịnh Bá làng Yên Lộ có cụ “Tổ Nhất Đại Trịnh Quý Công Tự Đạo Chính kỵ nhật ngày 2 tháng 2 năm 1738” được an táng tại mộ phần xứ Đống Bằng trên diện tích 2 sào 10 thước (mộ giữa cánh đồng Đống Bằng, hướng Nam, đầu gối về núi Tam Đảo, chân đạp thủy) – Mà hiện nay Mộ phần của cụ táng tại gò Đống Bằng cao ráo, rộng chừng trên 600m2, dân làng Yên Lộ và quanh vùng vần gọi là Mộ cụ Tổ họ Trịnh ở Đống Bằng – Đặc biệt ngôi mộ theo các cụ trong làng Yên và con cháu trong dòng họ Trịnh Bá cho biết: Cụ Trịnh Quý Công tự Đạo Chính có thể là dòng dõi cháu nội của Chúa Trịnh Căn do biến đổi trong dòng tộc Chúa Trịnh Căn nắm quyền từ 1682 đến 1709. Bản Hán Nôm chép lại ghi là Tổ khảo (chứ không ghi là Thái Cao Tổ hoặc Thủy Tổ hay Viễn Tổ). Hội Đồng gia tộc họ Trịnh Bá làng Yên Lộ (tiêu biểu họ Trịnh Bá) cho rằng cụ Trịnh Quý Công tự Đạo Chính là thuộc cháu nội từ Chúa Trịnh Căn (có thể thân thế gia đình từ bố mẹ bị trái nghịch phép đạo...) nhưng vẫn được ân điểm và xin được Chúa Trịnh Căn ban phát đất đai và đặc quyền đưa về vùng đất trang Yên Lộ sinh sống và lập nghiệp (vì Yên Lộ là vùng đất cổ từ thời An Dương Vương do cụ Tổ Trịnh Huân lập lên. Như vậy, có thể nói cụ Trịnh Quý Công tự Đạo Chính có thể tên là Trịnh Bá Chính – Là con trưởng nên đệm là Bá) cách ngày nay phải trên 350 năm. Cụ đã từng làm quan trong triều, các anh em họ Trịnh cùng đều gần gũi ở quanh thành Thăng Long xưa – Vì vậy ngôi mộ của các cụ Tổ được con cháu và dân làng Yên vẫn thường gọi là “Mộ Tổ xứ Đống Bằng” an táng với trên diện tích 2 xào 10 thước, đào sâu tới 24 thước (mét ta) = 9mét 6 tây - Vì gia tộc có quyền thế mới đặt mộ cụ tổ mình và đào sâu lập lên mộ khu Đống Bằng to đến như vậy). Mộ tọa trên gò đống cao, trong quan ngoài quách, có nhiều gạch cổ (hiện nay con cháu đào xây ốp đá tìm thấy, tiến sĩ Nguyễn Đạt Thức (Cục Di Sản văn hóa) cho biết đó là gạch cổ thời Hán) mộ xây 4 tầng mái vòm (trong thời gian chăm sóc các con cháu trong họ những năm qua đã phát hiện được rất nhiều gạch cổ, đồ gốm, đồ đá cổ xung quanh ngôi mộ Tổ trên nền gò Đống Bằng và rất linh thiêng…).

Qua các đời đã có nhiều vị “Tri phủ, Chánh tổng và Lý trưởng” ở quanh vùng đều tìm đến lễ cầu và còn có các vị Chủ tịch quận huyện cũng tự tìm về tế lễ, thắp hương cầu xin lộc. Có thể nói Chúa Trịnh Cương là cháu của cụ Tổ Đạo Chính… đến bà Thái Phi được thờ ở Đền Yên Lộ cũng là cháu chắt của cụ Tổ Đạo Chính. Về quan điểm này rất hợp với câu đối cổ treo ở nhà thờ của ông Trịnh Bá Anh nội dung câu đối: “Tích Trong Tại Diệp…” (có nghĩa là Truyền lại… giữa đời của nhà Trịnh tách ra), “Tiên Tổ Thị Hoàng/ Sóc Tòng Cửu Thế Dĩ Lai” (có nghĩa là Đời thứ 9 từ cụ Tổ tách ra – Cụ Tổ Chúa Trịnh Kiểm 1545-1570 (ở Sóc Sơn, Vĩnh Lộc, Thanh Hóa) tách ra là đời thứ 9. Chúa Trịnh Căn 1682-1709 (gặp nhiều trắc trở trọng việc lập người kế nghiệp như: Năm 1684 phong cho con thứ Trịnh Bách làm Tiết chế thay cho con trưởng Trịnh Vịnh chết nhưng 1687 phong cho cháu nội Trịnh Bính nối ngôi Trịnh Bách lại chết sớm, năm 1709 chúa Trịnh Cương chắt của Trịnh Căn mới lên nối ngôi Tiết chế đời thứ 7). Điều đó có nghĩa cụ “Tổ Nhất Đại Trịnh Quý Công Tự Đạo Chính” là cháu dòng chúa Trịnh Căn và là đời thứ 6 chính thống (3 đời sắc phong nối ngôi Tiết chế đều không thành do người kế nghiệp mất sớm tính từ cụ Tổ Trịnh Kiểm) – Đây cũng có thể khẳng định cụ Tổ khảo Trịnh Quý Công tự Đạo Chính là dòng trực hệ châm anh thế phiệt chắt đời thứ 9 từ Chúa Trịnh Kiểm). Cũng rất phù hợp với bức hoành phi cổ ở phủ chúa Trịnh (thôn Nghĩa Lộ thời Tây Sơn đã bị phá là “Tiên Tổ Thị hoàng lâm hữu hách/ Nhi Tộc Phỉ thụ phúc vô cương” …

Nhân Kỷ niệm 80 năm Ngày Cách mạng tháng Tám (19/8/1945) và Quốc khánh (2/9/1945-2/9/2025) – Chuẩn bị cho “Hội thảo Khoa học Họ Trịnh Việt Nam trong tiến trình lịch sử” do Hội Khoa học lịch sử Việt Nam phối hợp với Hội đồng họ Trịnh Việt Nam tổ chức – Chúng tôi có dịp sưu tầm về họ Trịnh Bá làng Yên Lộ. Dòng họ Trịnh Bá làng Yên Lộ được truyền lại trên bảng phú húy bằng gỗ ghi lại vào ngày 9 tháng 12 năm Tự Đức thứ 10 (1857): Cụ “Tổ Nhất Đại Trịnh Quý Công Tự Trực Đạo” mất ngày 2 tháng năm 1738 được nhà Chúa phong đất để mai táng, có diện tích 2 sào 10 thước và truyền lại, cụ được án táng sâu 24 thước ta, tại khu đất Đồng Bằng thuộc khu đồng Sấu, thôn Yên Lộ, phường Yên Nghĩa, Hà Nội. Thực hiện chính sách dồn điền đổi thửa thời kỳ 1962-1965 huyện Hoài Đức cho đến nay. Khu mộ Tổ Đống Bằng nay thuộc khu đồng Sấu làng La Tinh, xã An Khánh, Tp. Hà Nội. Con cháu trong dòng họ Trịnh Bá hàng tháng (tuần tiết vẫn cử người trông nom, tu bổ và thăm viếng cụ). Cụ “Tổ Nhất Đại Trịnh Quý Công Tự Đạo Chính” sinh ra cụ “Tổ khảo Trịnh Lệnh Công tự Thuần Hiền” an táng tại xứ Con Rồng.

Họ Trịnh Việt Nam từng có câu “Trịnh tồn, Lê tại”. Nhớ lại kỷ niệm những năm cụ Trịnh Bá Doanh còn sống, cụ khi đó là Chủ tịch Hội đồng họ Trịnh (tỉnh Hà Tây cũ), người đã có nhiều công xây dựng phong trào các dòng họ của Hà Tây (cũ) và của họ Trịnh Việt Nam. Dấu ấn của cụ về việc làm các pho tượng hiện nay đang ngự trong Phủ Chúa, Thanh Hoá và ý tưởng xây dựng Lăng mộ chúa Trịnh Tùng đã có từ những năm 1995-1998 vẫn còn vẹn nguyên. Họ Trịnh Bá ở làng Yên Lội có nhiều chi nhánh, trong đó có nhiều người giữ những vị trí quan trọng trong bộ máy của Đảng Nhà nước, tham gia vào các hoạt động chính trị, ngoại giao, đóng góp cho sự phát triển của Đất nước – Chúng tôi đã thu thập tư liệu từ Hội Đồng Gia tộc họ Trịnh Bá, gia đình ông Trưởng chi họ Trịnh Bá Anh và gặp ông Nguyễn Văn Đa sinh năm 1949 (nguyên Huyện ủy viên huyện Hoài đức 14 năm, Bí thư, Chủ tịch UBND xã Yên Nghĩa đã nghỉ hưu) cho biết: Tại ngôi nhà số 8 (ngõ 141, phố Yên Lộ, làng Yên Lộ, Yên Nghĩa, Hà Nội) có ông Trịnh Bá Anh làm Trưởng chi họ còn giữ được ngôi nhà thờ cổ xưa của cụ Trịnh Bá Vỹ (xóm An Chinh, Yên Lộ, Hoài Đức, Hà Đông) – Đồng chí Trường Chinh (nguyên Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam để lại bút tích xác nhận ngày 15/5/1988 “…Từ 7/1940-3/1941, tôi đã làm việc tại nhà đồng chí Trịnh Bá Bổng.. Đây là cơ sở của Xứ ủy Bắc Kỳ. Lúc này đồng chí Bổng là Bí thư chi bộ, kiêm Đội trưởng đội tự vệ… trước khi tôi về (đồng chí Hoàng Quốc Việt, Nguyễn Lương Bằng, Trần Đăng Ninh, Trần Quốc Hoàn, Hoàng Văn Thụ, Nguyễn Lương Bằng, Hoàng Ngân…). Cả gia đình đồng chí Bổng cha là Trịnh Bá Vỹ, mẹ là Nguyễn Thị Là, vợ là Nguyễn Thị Tụy đến các con ... đã ủng hộ Cách mạng về vật chất, chăm lo ăn ở, đưa đón cán bộ, canh gác các cuộc họp của chúng tôi được chu đáo… Tóm lại, cả gia đình đồng chí Bổng đều một lòng theo Đảng”. Qua ấn phẩm Kỷ yếu được lưu giữ tại nhà thờ, nơi đây năm 1936 Chi bộ Đảng Cộng sản Đông Dương làng Yên Lộ được thành lập, trụ sở bí mật của Xứ ủy Bắc Kỳ và Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương từ 1938-1945.

Qua thời gian, gia đình ông Trịnh Bá Anh và em trai Trịnh Bá Uy (nguyên Phó Chủ nhiệm UBKT Đảng ủy Đài Tiếng nói Việt Nam cơ quan thường trú khu vực miền Trung) đề xuất: UBND thành phố Hà Nội đã ra quyết định số 1719/QĐ-UBND ngày 27/4/2020 Về việc tổ chức gắn biển, dựng biển “Địa điểm lưu niệm sự kiện cách mạng kháng chiến tại gia đình cụ Trịnh Bá Vỹ, phường Yên Nghĩa, quận Hà Đông”. Đến nay, ngôi nhà ông Trịnh Bá Anh vẫn thường xuyên được quản lý, bảo vệ, duy tu, bảo dưỡng, sửa chữa chống xuống cấp và tuyên truyền nhằm phát huy giá trị biển lưu niệm. Người họ Trịnh thôn Yên Lộ rất tự hào về nghề thuốc, nghề dạy học mà tiếng thơm cụ Trịnh Bá Vỹ vẫn còn đến ngày nay. 

Chúng tôi đã gặp gỡ được các ông: Trịnh Bá Lam, Trịnh Bá Hảo, Trịnh Giang Nam, Trịnh Bá Trân, Trịnh Bá Trường, Trịnh Bá Vựng, Trịnh Bá Du, Trịnh Bá Hiền, Trịnh Quang Vinh, Trịnh Hùng Minh… Có thể cảm nhận sâu sắc về dòng họ Trịnh Bá làng Yên Lộ: Là một cành nhánh của dòng họ Trịnh Việt Nam, một dòng họ danh gia vọng tộc, trải qua bao bụi trần thời gian, thăng trầm lịch sử, nhưng con cháu dòng họ Trịnh Bá vẫn đời nối đời phát triển trong tiến trình lịch sử hơn bốn ngàn năm của dân tộc như “Khí anh linh hằng rọi dấu người xưa/ Đuốc trí tuệ mong soi đường hậu bối”. Dòng họ có nhiều người giữ vị trí quan trọng trong bộ máy Nhà nước, tham gia vào các hoạt động chính trị ngoại giao, đống góp cho sự phát triển của đất nước, nhiều con cháu thành danh làm PGS.TS, Thạc sĩ, Kỹ sư, Bác Sĩ, Nhà văn, Nhà nghiên cứu khoa học… Nhiều cá nhân đã đạt thành tựu cao trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục, khoa học, trở thành các nhà giáo, nhà khoa học, nhà văn có uy tín. Họ Trịnh Bá rất chú trọng đến việc bảo tồn các giá trị văn hóa, các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của các bậc tiền nhân để lại các giá trị truyền thống của dòng họ gia đình.

Hiện dòng họ Trịnh Bá làng Yên Lộ có trên 300 đinh, có thể liệt kê những người từng giữ nhiều vị trí quan trọng trong bộ máy của Đảng và Nhà nước ta qua các thời kỳ: Cụ Trịnh Bá Vỹ (sinh 1867-1941, từng làm Phó Chánh tổng La Nội, Chi hội Trưởng phong trào Đông Du sau chuyển hướng tham gia phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, đại gia đình cụ được tặng 5 Kỷ niệm chương “Bằng Có Công Với Nước” cùng làng Yên Lộ xứng danh là “hạt giống đỏ” của vùng ATK đầu não của phong trào cách mạng vùng La - Mỗ); vợ cụ Trịnh Bá Vỹ là cụ Nguyễn Thị Là được thưởng Huy chương kháng chiến hạng Nhì; cụ Trịnh Bá Bổng 1901-1988 là con trai cụ Trịnh Bá Vỹ làm Bí thư chi bộ năm 1929 làm Tỉnh ủy viên, năm 1935 bị bắt vào nhà tù Hỏa Lò cùng đồng chí Trường Trinh, được kết nạp và Đảng Cộng sản Đông Dương, được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Hai; cụ Trịnh Bá Châm 1902-1977, làm cơ sở cách mạng An toàn khu Yên Lộ, được tặng thưởng Bằng Có Công Với Nước; cụ Trịnh Bá Phách 1912-1950 từng làm Bí thư chi bộ Yên Lộ từ 1939, là Liệt sỹ chống Pháp hy sinh 29/5/1950; cụ Trịnh Bá Khôi 1913-2004, được Đảng Nhà nước tặng Bằng Có Công Với Nước; cụ Trịnh Lê Doanh (tên do đồng chí Trường Trinh đặt 1930-2008, tức Trịnh Bá Du làm Trưởng phòng Giáo dục huyện Chương Mỹ); cụ Trịnh Bá Vững Chủ tịch Hội Đông kinh Nghĩa thục vùng Hoài Đức, rồi sau đó cụ có chân trong Việt Nam quốc dân Đảng mà người phụ trách trực tiếp là Nguyễn Thái Học; cụ Trịnh Bá Trạm là Liệt sỹ chống Pháp; cụ Trịnh Giang Nam sinh 1939, Cự chiến binh về địa phương làm Chủ nhiệm HTX nông nghiệp xã Yên Nghĩa nhiều năm; ông Trịnh Bá Xuân (sinh 1935, làm cán bộ biệt phái tăng cường cho tỉnh Tây Ninh miền Nam); ông Trịnh Bá Cầm từng làm Tham tán Đại sứ Việt Nam tại Campuchia, Bí thư thứ Nhất Đại sứ Campuchia; ông Trịnh Quang Tuấn (sinh 1955, làm cán bộ ở Chi cục Thuế Hà Nội); ông Trịnh Minh Trường làm Phó phòng Thanh tra Bộ giáo dục và Đào tạo; ông Trịnh Bá Du làm Trưởng phòng Kế toán Điện máy Xăng dầu Ty Thương nghiệp Hà Tây cũ; ông Trịnh Bá Quang làm Đội trưởng Đội Quản lý thị trường quận Hà Đông; ông Trịnh Bá Châm (làm Chủ nhiệm HTXNN, Giảng viên Trường Máy kéo nông nghiệp Hà Tây cũ); ông Trịnh Bá Tuấn, Thượng tá trung đoàn Phòng không Không quân; ông Trịnh Bá Vựng, Thiếu tá phòng Hậu cần Công an Hà Tây cũ; ông Trịnh Bá Khôi (từng làm Chủ tịch UBND xã Yên Nghĩa), ông Trịnh Bá Vang làm Chủ nhiệm Hợp tác xã; ông Trịnh Hùng Minh, Phó Trưởng phòng Thể thao quần chúng Sở VHTTDL Hà Nội, ông Trịnh Quang Vinh sưu tập tư liệu làm bảng gia phả họ Trịnh Bá Yên Lộ, ông Trịnh Bá Sáng là PGS.TS thiếu tá QĐND …vv.

Xứng danh một dòng họ Văn hóa:

“Chim có tổ, người có tông” là điểm mạnh trong văn hóa dòng họ hiện nay, cũng là điểm nhấn quan trọng trong nền văn hiến Việt Nam và đặc biệt trong dòng chảy xây dựng người Thăng Long Hà Nội thanh lịch văn minh, khơi dạy giá trị tốt đẹp của con người trong xu thế “Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc nhằm phát triển bứt phá, tăng tốc dưới sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, phồn vinh, hạnh phúc, đuổi kịp, tiến cùng, sánh vai với các cường quốc năm châu”.

Điểm sáng của dòng họ Trịnh Bá là đã dầy công “Xây dựng được cuốn Trịnh gia phả hệ dòng họ Trịnh Bá làng Yên Lộ”, “Bản Tộc ước Trịnh Bá làng Yên Lộ trên tinh thần xây dựng gia tộc đoàn kết phát triển bền vững”, “Duy trì dòng họ Trịnh Bá tổ chức Tổng kết hoạt động dòng họ hàng năm để bảo tồn Bản Tộc ước, động viên khuyến học, khuyến tài và xây dựng Quỹ dòng họ luôn ổn định lưu động trên 200 triệu đồng”.

Trong điều kiện cách mạng công nghiệp đang bứt phá tác động mạnh mẽ đến trào lưu văn hóa khắp mọi miền và trên toàn thế giới, đặc biệt là thế hệ trẻ. Dòng họ Trịnh Bá ở làng Yên Lộ đã xây dựng được bản “Tộc ước Trịnh Bá Yên Lộ” trên 10 trang với 7 chương và 18 điều. Với phương châm “Việt Quốc đại trường tồn/ Trịnh Gia lưu bất tận” nhằm “Xây dựng Gia tộc đoàn kết, phát triển bền vững” của Hội Đồng Gia tộc Trịnh Bá làng Yên Lộ. Lời mở đầu “Bản tộc ước Trịnh Bá Yên Lộ” được khẳng định bằng những việc làm cụ thể, mỗi cá nhân trong dòng họ Trịnh Bá đều phải nâng cao ý thức đoàn kết, nỗ lực, phát huy tâm lực, trí lực, tài lực, vật lực để xây dựng và duy trì dọng họ Trịnh Bá xứng danh là dòng họ văn hóa vững mạnh. Không phân biệt nam, nữ, trai, gái, dâu, rể, già, trẻ luôn giữ gìn nếp sống Gia đình văn hóa, thực hiện nếp sống văn minh, gia phong, dòng tộc luôn đảm bảo luân thường đạo lý, thuần khiết trong sáng về truyền thống, phát triển lành mạnh, giữ gìn bản sắc dân tộc về giống nòi, dòng tộc họ Trịnh Bá. “Bản Tộc ước Trịnh Bá Yên Lộ” quy định những điều không trái với Hiến pháp, chính sách, pháp luật, các quy định hiện hành của Đảng, Nhà Nước, của địa phương và Hương ước của làng Yên Lộ. Nội dung “Bản Tộc ước Trịnh Bá Yên Lộ” tại điều 1 về “Tôn chỉ và mục đích hoạt động”, tại điều 2 về “Hệ thống tổ chức gia tộc”, tại điều 3 về “Chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của Hội Đồng gia tộc và các Ban”… Điều đáng nói ở đây “Bản Tộc ước Trịnh Bá Yên Lộ” quy rất rõ tại điều 8 về “Thăm hỏi, hiếu, hỷ”, điều 9 về “Chúc thọ, mừng thọ các cụ cao tuổi và khen thưởng”, điều 10 về “Ngày cúng giỗ trong năm”, điều 15 về “Việc thu chi tài chính” và chương VII “Điều khoản thi hành” – Thật ấn tượng với đầy đủ chữ ký phê duyệt của các Thành viên Hội Đồng gia tộc họ Trịnh Bá.

Họ Trịnh Bá làng Yên còn thống nhất xây dựng bản “Trịnh Gia Phả Hệ” ban hành nhằm giáo dục, công bố tuyên truyền cây “Phả Hệ” cho dòng họ Trịnh Bá làng Yên Lộ - Mô tả mối quan hệ giữa các thành viên, bắt đầu từ của các cụ Thái Cao Tổ Trịnh Khả - Trịnh Kiểm, đến cụ Trịnh Huân người đã có công lập lên Trang Yên Lộ xưa từ thời An Dương Vương – Giai đoạn thứ nhất: Công đức Thủ tổ nhà Trịnh, sau đó liệt kê đến các đời Chúa Trịnh – Giai đoạn hai: Thân thế sự nghiệp của các đời Chúa Trịnh đến Chúa Trịnh Căn – Giai đoạn ba: Hậu duệ con cháu nhà Trịnh tại làng Yên Lộ, Yên Nghĩa, Hà Nội, đặc biệt mô tả Đời của “Đệ Nhất Tổ Khảo Trịnh Quý Công Tự Đạo Chính” – Rồi liệt kê các Ngành Trưởng họ Trịnh Bá làng Yên – Ngành Hai – Các Chi Trưởng (nhánh 1,2,3,4..) rất cụ thể, chi tiết, rõ ràng có thể tra ra các con, cháu, chắt từng gia đình.

Hàng năm Hội Đồng họ Trịnh Bá làng Yên Lộ thống nhất kêu gọi duy trì dòng tộc Trịnh Bá tích cực tham gia vào việc của làng Yên Lộ như về tham dự lễ hội nếu có hoặc các việc của làng – Gặp mặt đầu Xuân và hướng về Tiên Tổ, tham gia lễ dâng hương Giỗ Tổ ngày mùng 2 tháng 2 âm lịch hàng năm, đóng góp vào “Bản báo cáo tổng kết của Hội đồng Gia tộc họ Trịnh Bá hàng năm” về những việc đã làm được và chưa làm được. Hội Đồng Gia tộc thông báo nội dung Nghị quyết của dòng họ, về việc xây dựng, tu bổ, tôn tạo, cử người trông non, chăm sóc cây xanh các khu Lăng Mộ Cụ Tổ và nhà thờ. Biểu dương, khen thưởng những gia đình, cá nhân đóng góp cho dòng tộc Trịnh Bá làng Yên. Thông qua danh sách các cá nhân, con, cháu, chắt đạt thành tích cao trong học tập và kết hợp khen thưởng: Học sinh Giỏi, Xuất sắc, cháu Ngoan Bác Hồ, các cháu Thi đỗ vào các Trường đại học, các cháu giành Thành tích đặc biệt trong nước và nước ngoài. Ngày nay, trong cơn lốc của thị trường, bất động sản, người họ Trịnh Bá ở đây ít bị sa sẩy, âu cũng là một ân huệ, phúc đức của tổ tiên và các bậc tiền nhân đã dày công để lại.

Ths. Phùng Quang Trung, nguyên Trưởng phòng Văn học Bộ VHTTDL

 

Tags:

Bài viết khác

Bài 1: Làng Yên Lộ trong dòng chảy lịch sử dân tộc

Làng Yên Lộ, Yên Nghĩa, Hà Nội (xưa là An Lộ trang, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên, trấn Sơn Nam) nằm trong “Tam Lộ, Ngũ Lãm” là một trong những làng Việt cổ đại (Kẻ Yên – Kẻ Tuân – Kẻ Do – Kẻ Nghĩa – Kẻ Sốm được hình thành với quá trình dựng nước của dân tộc từ thủa các Vua Hùng) cách Ba La Bông Đỏ chừng 2 km, ngụ bên bờ trái đoạn thượng nguồn dòng Hát Giang nay là sông Đáy thuộc châu thổ sông Hồng.

Chiến khu Đ – Di tích quốc gia đặc biệt giữa rừng Mã Đà (Đồng Nai)

Nằm giữa vùng rừng nguyên sinh Mã Đà, xã Trị An, tỉnh Đồng Nai (trước đây thuộc huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai), Chiến khu Đ là một trong những di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia đặc biệt của Việt Nam. Đây từng là căn cứ địa chiến lược trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, nơi hun đúc tinh thần yêu nước, kiên cường của quân dân miền Đông Nam Bộ.

Chùa Việt Nam Quốc Tự: Biểu tượng lịch sử của Phật giáo Việt Nam đương đại

Chùa Việt Nam Quốc Tự không chỉ là công trình tôn giáo mang đậm dấu ấn kiến trúc Phật giáo Bắc Tông tại TP.Hồ Chí Minh, mà còn là biểu tượng gắn liền với một giai đoạn đấu tranh lịch sử đầy biến động của Phật giáo Việt Nam vào đầu thập niên 1960. Sự ra đời, trùng tu và phát triển của ngôi chùa này phản ánh những chuyển biến quan trọng trong mối quan hệ giữa Phật giáo và xã hội Việt Nam hiện đại.

Chùa Tôn Thạnh – Dấu ấn văn hóa lịch sử miền Nam

Trải qua hơn hai thế kỷ tồn tại, chùa Tôn Thạnh (ấp Thanh Ba, xã Mỹ Lộc, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An cũ, nay thuộc xã Mỹ Lộc, tỉnh Tây Ninh) không chỉ là một công trình Phật giáo tiêu biểu ở Nam Bộ, mà còn là nơi gắn bó sâu sắc với cuộc đời và sự nghiệp của nhà thơ – chí sĩ Nguyễn Đình Chiểu. Với giá trị đặc biệt về lịch sử, văn hóa và tâm linh, chùa đã được xếp hạng Di tích lịch sử – văn hóa cấp Quốc gia vào năm 1997.

Đình thần Thắng Tam – Di tích lịch sử văn hóa giữa lòng đô thị biển Vũng Tàu

Giữa nhịp sống hiện đại, sôi động của phường Vũng Tàu (TP. Hồ Chí Minh), đình thần Thắng Tam vẫn sừng sững và uy nghiêm, như một chứng nhân lịch sử, ghi dấu quá trình hình thành và phát triển của vùng đất ven biển này. Không chỉ là chốn linh thiêng trong đời sống tâm linh của cư dân địa phương, đình còn là di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia, mang trong mình những giá trị đặc biệt về kiến trúc, lịch sử và tín ngưỡng dân gian Nam Bộ.

Chùa An Phú – Tuyệt tác miểng sành giữa lòng đô thị Sài Gòn

Ẩn mình trên con đường nhỏ thuộc phường Bình Phú, TP.Hồ Chí Minh (trước đây là phường 10, Quận 8, TP.Hồ Chí Minh), chùa An Phú – hay còn được người dân trìu mến gọi là chùa Miểng Sành – là một điểm đến độc đáo hiếm có giữa lòng thành phố nhộn nhịp. Với tuổi đời gần 180 năm, ngôi chùa không chỉ là nơi gửi gắm đời sống tâm linh của bao thế hệ mà còn là một công trình nghệ thuật dân gian đặc sắc, được kiến tạo từ hơn 30 tấn mảnh sành, sứ phế liệu.

Phước Hậu – Cổ tự bên sông và di sản tâm linh của miền Tây

Nằm bên dòng sông Trà Ôn hiền hòa, chùa Phước Hậu tọa lạc tại ấp Đông Hậu, xã Ngãi Tứ, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long. Đây là một trong những ngôi chùa cổ nổi bật của vùng Tây Nam Bộ, không chỉ là trung tâm sinh hoạt Phật giáo của dòng Lâm Tế – Chúc Thánh, mà còn được biết đến với vườn kinh đá độc đáo bậc nhất miền Tây, thu hút đông đảo du khách và phật tử thập phương.

Tháp Đôi – Biểu tượng lịch sử và tâm hồn văn hóa của đất Quy Nhơn

Giữa lòng thành phố biển Quy Nhơn đầy nắng gió, nơi những con sóng ngàn đời vẫn vỗ về bờ cát trắng, có một công trình mang dáng dấp vừa uy nghiêm vừa trầm mặc, như một khúc nhạc xưa vọng lại từ quá khứ huy hoàng của vương quốc Chămpa. Đó chính là tháp Đôi, một trong những di tích kiến trúc Chăm Pa tiêu biểu còn tồn tại gần như nguyên vẹn trên dải đất duyên hải Nam Trung Bộ.
Top