
Làng Yên Lộ, Yên Nghĩa, Hà Nội (xưa là An Lộ trang, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên, trấn Sơn Nam) nằm trong “Tam Lộ, Ngũ Lãm” là một trong những làng Việt cổ đại (Kẻ Yên – Kẻ Tuân – Kẻ Do – Kẻ Nghĩa – Kẻ Sốm được hình thành với quá trình dựng nước của dân tộc từ thủa các Vua Hùng) cách Ba La Bông Đỏ chừng 2 km, ngụ bên bờ trái đoạn thượng nguồn dòng Hát Giang nay là sông Đáy thuộc châu thổ sông Hồng.
Yên Lộ là một làng Việt cổ tiêu biểu của đồng bằng Bắc bộ có đình, chùa, nhà thờ khang trang, bề thế, có giếng nước cổ, ao làng, bờ tre, bờ đê ven sông Đáy để lại cho các thế hệ mai sau:
“Một chốn uy nghi chùa tổ đình
Bao đời sung bái thật là linh
Họ Trịnh làng Yên nhiều người tốt
Thánh địa Thành hoàng thật anh minh
Kẻ Lộ bốn mùa luôn khấm khá
Trịnh tộc trường tồn vạn đại vinh
Phục quốc oai linh tràn bốn cõi
Yên Lộ keo sơn trọn nghĩa tình”.

Làng Yên Lộ có ngôi đình thờ 3 vị Thành hoàng: Thượng đẳng thần Thủy Hải Long Vương là thần nước, vị thần bảo trợ quen thuộc của cư dân nông nghiệp – Trung đẳng thần Tĩnh Quốc Công Đệ Tam Lang là Lạc tướng của Vua Hùng Vương thứ 18 – Trung đẳng thần Ả Lã Công Chúa (húy Nàng Đê) Tả Đạo Tướng Quân của Hai Bà Trưng. Trong đình còn lưu giữ nhiều câu đối cổ, tiêu biểu có câu: “Hộ quốc tí dân, công đức nguy nga thiên địa tịnh/ Trừ tai phòng họa, uy khanh hách hách cổ kin truyền”. Tạm dịch là: “Giữ nước cứu dân, công đức lớn cùng trời đất/ Trừ tai phòng họa, tiếng thơm truyền mãi xưa nay”. Theo ngọc phả, vào những năm 40 đầu Công nguyên ngôi đình làng Yên được dựng bằng tranh tre trên cánh bãi ven sông, vào tháng 3 rợp đỏ màu hoa của 3 cây gạo cổ thụ, dân vẫn quen gọi là Bãi Gạo. Khi Vua Lê Đại Hành theo dòng Hát Giang ra đánh giặc Tống, cuối thế kỷ X, nhà Tống sai tướng Hầu Nhân Bảo đem vài vạn tinh binh sang xâm lược nước ta. Vua Lê Đại Hành dẫn một cánh quân tiến về đất trang Yên Lộ, thấy cảnh núi sống uốn lượn quanh co, sông nước hữu tình, bền dừng lại đóng quân đã dừng chân tại đây ngày 11 tháng Chạp. Đêm đó, Ngài đã được Thành Hoàng làng ứng mộng báo trước tin chiến thắng. Sáng hôm sau, trong niềm tin vào sự phù trợ của linh khí núi sông, Ngài đã làm lễ tế thiên địa rồi tiếp tục hành binh. Quả nhiên trận đánh đã đại thắng. Trên đường khải hoàn, Ngài hạ trại tại đây từ ngày mồng 8 đến 15 tháng Giêng để lễ tạ và khao quân thưởng tướng. Sau đó Ngài trao cho các bô lão trong làng 500 nén bạc và truyền rằng: “Ngôi đình này rất anh linh, các cụ nên tu sửa và thờ phụng cho chu đáo”. Nghe lời, năm Nhâm Ngọ 982 đình Yên Lộ được các cụ đã chuyển đình từ Bãi Gạo hay gọi là Bãi Hành Tại (vốn hay ngập lụt) lên vệ đê gò Con Quy.

Ả Lã Nàng Đê, theo truyền thuyết và thần phả là người con gái quê ở làng Thọ Vực (Nghĩa Trên), đã tham gia cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng năm 40-43 sau Công nguyên. Thánh Tịch Quốc Tam Lang và Thủy Hải Long Vương thì theo bản thần phả do Đông Các Đại học sĩ Nguyễn Bính soạn năm Hồng Phúc nguyên niên (1572) và được sao lại vào năm Khải Định thứ 6 (1921) hiện còn lưu giữ ở đình làng thì hai vị thần đã được thờ từ xa xưa ở trang Yên Lộ. Theo sách “Các trấn, tổng, xã danh bị lãm” viết vào thời vua Gia Long (1810 - 1819), thì đình nằm trên thế đất cao, theo hướng tây nam trông ra một hồ rộng lớn, xung quanh đình là những cây gỗ lớn. Đình có mặt bằng kiến trúc theo lối chữ “đinh”, hai bên có Tả hữu mạc. Trước đình là hai cột đồng trụ cao 7m, hai bên có cổng pháo đắp vữa giả làm bằng ngói ống có tám mái cong. Nối giữa trụ chính là cổng pháo, tường bao. Tường bao đắp nổi một bảng rồng và một bảng hổ bằng vôi vữa. Hai cột trụ hình vuông mỗi chiều 1,2m. Bước qua cổng ta tới một sân lát gạch, gạch vuông sen kẽ gạch hình chữ nhật chạy dài tới bậc thềm của đình. Hai bên sân là nhà Tả hữu mạc có chiều dài 7m, chiều cao 3,8m. Các vì kèo là kiểu bào trơn đóng bén, xà được gác lên tường, cho nên không có cột. Đại bái là công trình kiến trúc chính của di tích, từ sân bước lên Đại bái sáu bậc thềm bằng đá và lát gạch vuông 30cm x 30cm. Toàn bộ bậc đá có 53 viên, viên dài nhất 1,53m, dầy 14cm, rộng 24cm. Đại bái có lòng rộng 7m, dài 15,5m, có 24 cột. Đình là ba gian hai dĩ mái cong, xung quanh Đại bái được xây gạch để bảo vệ. Các bộ vì kèo trong Đại bái làm theo kiểu “chồng rường con nhị”, trên thượng lương có đắp hổ phù. Hai vì kèo gian giữa có bốn bức cốn được chạm bốn mặt trong và bốn mặt ngoài những con chim phượng, rồng cuốn thuỷ, rùa. Các cốn mê khác là cành trúc hoá rồng. Các bẩy hiên đều chạm lá lật và lá cách điệu thành rồng. Nhìn chung kiến trúc đơn giản, mang phong cách muộn thời Nguyễn. Trong Hậu cung là hai bộ long ngai bài vị, trong đó có một bài vị có niên đại thời Hậu Lê, một thời Nguyễn. Cả ba mâm đài và chín quả đa, một choé có hoa văn men xanh sẫm để cúng (nước cúng). Thủy Hải Long Vương được phong là “Linh Ứng hộ quốc, hách thanh, châu diện tôn thần”, Tịnh Quốc Tam Lang được phong tặng Phúc thần.

Hiện tại đình làng còn lưu giữ 21 đạo sắc của các triều vua phong cho 3 vị thần (trong đó 4 đạo phong cho Quốc Vương Thiên tử Thủy Hải Long Vương, 1 đạo cho Thủy Hải Long Vương và Ả Lã Nàng Đê, 4 đạo phong cho Thủy Hải Long Vương và Tịch Quốc Tam Lang, 01 đạo cho Ả Lã Nàng Đê, số con lại phong chung cho cả 3 vị thần, trong số đó có 8 bản là bản sao lại). Đạo có niên đại sớm nhất là đạo năm Vĩnh Thịnh 7 (1711), đạo muộn nhất vào năm Khải Định thứ 9 (1924), có một đạo năm Quang Trung thứ 4 (1791), 01 đạo năm Bảo Hưng thứ 2 (1802). Đình mới được xây dựng kiên cố, bề thế trên nền đất kim quy (gồm đại bái nối hậu cung theo kiểu chuôi vồ, hai bên có tả mạc, hữu mạc. Cửa đình hướng ra khúc tụ thủy của sông Đáy và toàn cảnh núi Tử Trầm như một bức bình phong, bên hữu là dãy Ba Vì xa xanh, sau lưng là bờ đê vững chắc). Trên nền cũ của Bãi Gạo, nơi vua Lê Đại Hành từng ngự giá thì cứ hàng năm làng mở đám. Nơi đây diễn ra trò Nghiềm Quân và thi Dựng cây xôi, ngày thường là nơi dân họp chợ làng.

Tưởng nhớ công đức của nhà vua, hàng năm làng Yên Lộ tổ chức hội làng với trò thi “Dựng cây xôi”. Mở hội lệ, gặp năm “Phong đăng hòa cốc” mở hội đám, chọn ngày mùng 8 tháng Giêng làm ngày chính tiệc, sau đó kéo dài hết ngày 21 tháng Giêng. Tờ mờ sáng ngày 8 tháng Giêng, hai đám rước các Thánh lên Quán Thượng, xuống Quán Hạ, khởi hành và trở về hội quân ở trước nền giao quan trên Bãi Gạo (hành tại), vào đầu giờ tỵ (khoảng 10h), trò Nghiềm Quân được trình diễn. Tiếp theo là trò thi “Dựng cây xôi” độc đáo. Để có gạo nếp cho việc thổi xôi, hàng năm mỗi giáp bình chọn lấy một gia đình được lo việc nhà thánh. Gia đình ấy được làng giao cho cầy cấy mấy sào công điền. Từ việc chọn giống đến việc gieo cấy, chăm sóc, thu hoạch, xay giã… không ái bảo ai đều rất cẩn trọng tỷ mỷ. Phải chọn giống nếp quýt hoa vàng, khi lúa trắc xanh phải lựa cắt hết bông cời. Khi giã phải nhẹ nhàng chân dận cần cối đều nhịp chày để gạo sóng tăm tắp. Trước khi đồ xôi phải tải gạo ra nong nia, dung đũa vót nhọn gắp bỏ những hạt sạn, hạt tẻ, hạt gãy còn sót. Lại chỉ con trai chưa vợ, con gái chưa chồng, có nết mới được giao việc. Tính riêng công đoạn làm gạo kỹ có nhà phải nuôi cơm con cháu đến giúp việc nhộn nhịp hàng tuần. Cái lạ nhất ở đây, có thể bàn dân thiên hạ chưa thấy có chính là tầm vóc bất ngờ của “cây xôi”. Xôi được bày trên mâm rồng sơn son thếp vàng. Mâm tròn đường kính 80cm, có 4 chân cao 60cm, mặt mâm được quây (như quây thóc) bằng 3 vòng đai son đỏ, mỗi đai 20cm. Xôi phải đơm đầy 3 đai ấy mới đạt mức khoán. Những vòng đai son đỏ phải làm bằng tre cật già, cạo sạch tinh, đan long hình hoa gấm. Mỗi đai cũng cao 20cm, người đơm phải bắc ghế lên cao dần; cứ đua tài như thế, rồi cây xôi nào cũng rất cao, rất nặng, khó bề chuyển dịch. Sáu cây xôi được đặt hang ngang, thứ tự theo tên giáp, từ đông sang tây. Sau khi tháo bỏ các đai tre, giữ lại 3 đai sơn, 6 cây xôi như có phép mầu thoắt hóa thành những cây thiêng với phần đế đỏ óng, phần thân trắng muốt vươn cao sừng sững không kém tầm vóc những thân cây gạo cổ thụ giữa không gian lễ hội rợp trời cờ quạt, trống chiêng. Ai được chiêm ngưỡng một lần quả đáng nhớ đời. Theo truyền ngôn trong dân gian thì lần cuối cùng hội làng có thi dựng cây xôi đã cách đây hơn một thế kỷ.

Lần ấy cây xôi của cự Tổng Kiên được giải nhất, cây xôi cụ Trùm Nhì được giải hai. Cây xôi giải nhất chỉ riêng phần xôi đã cao đến 2 mét, hết hơn 2 tạ gạo. Phần thưởng tặng giải nhất là một miếng thịt lợn, trường năm tấc, khoát 3 tất và một ván xôi đặt lọt chiếc mâm vuông cạnh 8 tất. Cây xôi vừa cao lớn vạm vỡ, vừa óng ả nuột nà ấy là điềm lành báo trước tin vui năm đó cả gia tộc, cả giáp, cả dân thôn được mùa lộc chẳng có gì so sánh được. Trên sân đình làng còn tổ chức chơi cờ bỏi, chơi leo cầu đốt pháo, chơi trò đánh đu, cờ người….
.jpg)
Những năm trở lại gần đây: 2005, 2010, 2015, 2020, 2025 cùng với việc giữ gìn tu tạo di tích và bản sắc dân tộc, hội xuân làng Yên Lộ đã được mở lại, mỗi năm một vui hơn, trong đó họ Trịnh làng Yên đóng vai trò rất lớn đóng góp tham gia với phong trào của quê hương. Điểm nhấn đặc biệt của lễ hội truyền thống Đình Yên Lộ, Yên Nghĩa mà ít lễ hội khác có được đó là: Nghi thức "xin đỏ" (lấy lửa đỏ) lúc 23h30 đêm mồng 10 Tết (trừ lễ hội truyền thống làng Văn Nội phường Phú Lương lấy lửa đỏ vào đêm 12 tháng giêng), khi người dân cầm nén hương, chờ lệnh hóa mã để xin "ngọn lửa đỏ tâm linh" mang về nhà. Ngọn lửa linh thiêng ấy được tin rằng sẽ mang lại may mắn, phát đạt và hạnh phúc cho gia đình trong năm mới. Ngoài ra sự có mặt của đầy đủ 54 Hội đồng niên ở các lứa tuổi cả Nam và nữ ăn mặc rất chỉnh tề, trang nghiêm, đẹp mắt và xếp hàng theo thứ tự lần lượt để dâng lễ lên Đình Làng tỏ lòng thành kính với các bậc anh linh, các bậc tiền bối và 3 vị Thành Hoàng Làng.
Đình Yên Lộ từng là nơi tập trung lực lượng, huấn luyện quân sự của lực lượng tự vệ và là nơi diễn ra nhiều hoạt động cách mạng quan trọng trong thời ký tiền khởi nghĩa. Với những đóng góp to lớn đó, năm 1969, làng Yên Lộ được Thủ tướng Chính phủ tặng bằng khen "Làng có công với nước". Đến năm 1991, đình làng Yên Lộ được Bộ Văn hóa Thông tin (nay Bộ VHTTDL) công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia.
.jpg)
Yên Lộ xưa có ngôi miếu ở khu vực Ba Cây. Làng Yên Lộ trước đây có 2 ngôi chùa (chùa An Quốc là chùa trên và chùa Kim Tiên là chùa dưới). Chùa An Quốc theo ngọc phả về Ả Lã Nàng Đê thì (do cụ Nguyễn Viên là cha của Ả Lã làm để cầu tự). Chùa được xây dựng vào cuối thời Lê. Làng Yên Lộ hiện có nhà thờ Thiên Chúa Giáo còn một quả chuông (An Quốc tự chung đúc năm Cảnh Thịnh thứ 9 năm Bính Thìn 1796 – Nay chữ Cảnh Thịnh bị đục xóa). Chùa Kim Tiên được dựng năm đầu thời Nguyễn (tại chùa còn quả chuông đúc năm Thiệu Trị thứ 6 Bính Ngọ 1846). Cuối thế kỷ trước, chùa An Quốc được dỡ đi để làm nhà thờ cho giáo dân theo sự thỏa thuận của hai bên lương giáo. Trên bảng của nhà thờ có hàng chữ “Thiên Chúa Giáng Sinh – 1837”. Trong đồng ngoài bãi của làng cũng còn nhiều địa danh mang tên gọi rất cổ như “Cửa rừng”, “Đầm cạn”, “Đống sấu”, “Vệ rừng”, “Tháp bún” …vv.
Ths. Phùng Quang Trung - nguyên Trưởng phòng Văn học Bộ VHTTDL