banner 728x90

Tục thờ cúng của người Xtiêng

07/07/2024 Lượt xem: 2538

Theo tâm linh của người Xtiêng thì khi người chết linh hồn sẽ trở về với rừng thiêng và vẫn “sống” như lúc chưa chết, chỉ có điều mắt người thường không nhìn thấy, song họ (linh hồn) vẫn thỉnh thoảng trở lại sóc để thăm thân nhân, người làng, vì lẽ đó mà người ta vẫn thờ cúng lâu dài. Có một điều là họ thờ chung tất cả mọi người đã khuất trong gia đình một bát hương.

Khi cha và mẹ người nào mất trước thì người còn sông sẽ đảm trách việc thờ cúng đến hết đời; họ tên, ngày sinh, ngày mất sẽ được ghi vào sách thờ, người còn lại qua đời thì để lại cho người con ở chung hoặc người nào đàng hoàng nhất trong đám con cái tiếp tục thờ. Khi cha mẹ hoặc anh em, con cháu dù còn trẻ, xấu số qua đòi đều được lo mai táng rất cẩn thận, nhà nghèo củng phải mặc nhiều áo quần cho “người ấm” và được chia của chôn theo gồm: các dụng cụ lao động, đồ dùng sinh hoạt như xoong, nồi, tô, chén và cả một ít lương thực mang tính tượng trưng.

Trước kia do sống theo tục mẫu hệ nên chỉ có con gái mới được thờ, song nay bất kể gái hay trai đều có thể đảm trách công việc này, miễn sao phải ở cùng sóc chứ ở xa… sợ các cụ không biết đường tìm đến. Với con trai đi ở rể không được thờ cha mẹ ruột, đặt trường hợp nếu chị em gái không có, hoặc có nhưng đã mất trước cha mẹ thì cháu gái kế tục thờ, nếu như không có cháu gái thì dòng họ can thiệp gần như bắt buộc bên vợ phải cho cả hai vợ chồng về hưởng gia tài và thờ cúng suốt đời, chứ không được rước bát hương về thờ bên vợ.

Có một số dòng tộc nhỏ người Xtiêng người ta vẫn làm giỗ từng người theo ngày mất, còn lại đại đa số giỗ chung. Nếu như nhà người chủ thờ thuộc diện khá giả thì mỗi năm có thể tổ chức cúng 2 – 3 lần vào thời điểm thấy thích hợp; nhà có kinh tế bình thường thì mỗi năm cúng một lần cũng được. Tối hôm trước ngày cúng giỗ thì chủ thờ đã dọn một ít thức ăn lên bàn thờ và mở sách thờ gọi tên mời từng người đã khuất về chung vui. Bữa sau, ngay từ sáng sớm toàn thể cô bác, anh em, con cháu ruột thịt đã hội tụ gần như đông đủ, mỗi hộ tự giác đem đến một số lương thực, thực phẩm phải do chính nhà mình nuôi, trồng ra, tùy theo khả năng chứ đi mua là không được, nếu như nhà không nuôi được con gì thì cũng không bắt buộc, không ai trách cứ. Ngày cúng cũng là ngày chủ nhà được dịp mời khách khứa, sui gia của bản thân cũng như của anh chị em khác cùng con cháu trong dòng họ hội ngộ.

Ban Nghiên cứu Văn hóa

 

 

Tags:

Bài viết khác

Nhạc cụ truyền thống trong hát Chầu Văn

Hát Chầu văn hay còn được gọi là hát văn hay hát hầu đồng là một loại hình nghệ thuật ca hát cổ truyền và một phần tín ngưỡng thờ Mẫu của văn hóa Việt Nam. Đây là hình thức lễ nhạc gắn liền với nghi thức hầu đồng của tín ngưỡng Tứ phủ (tín ngưỡng thờ Mẫu) và tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần (Trần Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuần), một tín ngưỡng dân gian Việt Nam.

Nét văn hóa tâm linh trong kiến trúc nhà thờ họ

Kiến trúc nhà thờ họ là biểu tượng vật chất đậm nét văn hóa phi vật thể của các tộc họ ở Việt Nam. Đây là nơi lưu giữ giá trị, tổ chức, quan hệ, và thành tựu của mỗi dòng tộc qua nhiều thế hệ. Theo truyền thống, nhà thờ họ thường được xây dựng theo cấu trúc đơn giản nhưng hài hòa, mang đậm nét riêng của văn hóa dân gian.

Vai trò và ý nghĩa của nhà thờ họ tại Việt Nam

Nhà thờ tổ hay từ đường là một ngôi nhà dành riêng cho việc thờ cúng tổ tiên của một dòng họ hay từng chi họ tính theo phụ hệ (dòng của cha). Nhà thờ họ phổ biến trong văn hóa người Việt tại khu đồng bằng và trung du Bắc Bộ và Trung Bộ.

Tứ quý trong tranh dân gian Đông Hồ

Tranh Tứ quý thuộc loại tứ bình (bốn bức) khổ lớn, vẽ cảnh tứ thời: Xuân, hạ, thu, đông. Mỗi mùa có một loài cây, loài hoa đặc trưng. Mùa xuân: hoa mai, hoa lan, hoa đào. Mùa hạ: hoa sen, hoa hồng, hoa lựu. Mùa thu: hoa cúc, hoa phù dung. Mùa đông: cây trúc, cây thông (tùng).

Cỗ và mâm cỗ truyền thống của người Việt

Mâm cỗ ở mỗi vùng quê Việt Nam có hương vị riêng nhưng bao giờ cũng vậy, mỗi mâm có 4 hoặc 6 người. Thông thường người ta kiêng ngồi 5 người, ở mâm cỗ có ít nhất hai người thân nhau, cũng có khi 3 cặp đều thân nhau thành một cỗ. Người nhà chủ tế nhị mời những người ăn ý với nhau vào một cỗ, sàn sàn lứa tuổi với nhau vào cùng mâm. Những người có tửu lượng mạnh hoặc nhẹ vào một cỗ, những người bằng vai phải lứa với nhau vào một cỗ. Đàn ông vào cỗ với nhau, còn đàn bà ngồi với đàn bà.

Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ Việt Nam

Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều mang trong mình những nét văn hóa riêng. Văn hóa là cái gốc cho sự phát triển, phồn thịnh của một đất nước. Việt Nam là một dân tộc mang một nền văn hóa đậm đà bản sắc, đa dạng và phong phú. Tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam từ lâu đã đóng vai trò quan trọng đối với người dân Việt, văn hóa tín ngưỡng có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống xã hội và tâm thức người dân.

Tín ngưỡng dân gian trong lễ hội cổ truyền ở Việt Nam

Tín ngưỡng dân gian đóng vai trò quan trọng trong các lễ hội cổ truyền của Việt Nam, thể hiện bản sắc văn hóa, tâm linh và lòng tôn kính đối với các thế lực siêu nhiên, Tổ tiên, thần thánh. Bài viết tìm hiểu một số đặc điểm nổi bật về tín ngưỡng dân gian trong các lễ hội cổ truyền của người Việt, đặc biệt, lễ hội liên quan đến tín ngưỡng dân gian như: tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng vạn vật hữu linh, tín ngưỡng thờ Thành hoàng, tín ngưỡng thờ Tổ tiên, tín ngưỡng thờ Mẫu...

Ý nghĩa và mục đích của tục “Bán khoán con lên chùa”

Bán khoán con cho chùa là một tín ngưỡng dân gian, một hình thức gửi gắm về mặt tâm linh. Có hai hình thức bán khoán con lên chùa: Bán khoán đến hết năm 12 tuổi rồi “chuộc” con ra, hoặc là bán khoán trọn đời. Từ xưa đến nay, nhiều gia đình quan niệm, khi sinh con ra, đứa trẻ hay đau yếu, khóc lóc không phải là do bị bệnh từ thân hoặc những đứa trẻ sinh vào giờ kỵ, ngày phạm (tức ngày mùng 1, 5, 8, 15, 23, 24, 28 và ngày 30 Âm lịch).
Top