banner 728x90

Tục giải hạn "Kẻ Pác cằm" của người Tày, Nùng

31/07/2024 Lượt xem: 2809

Trong đời sống, con người có nhiều mối quan hệ cộng đồng như: gia đình, dòng tộc, hàng xóm... Sống thế nào để hài hòa trong các quan hệ, đó là vấn đề xưa nay nhiều người đề cập đến. Sống khoan dung, độ lượng, chân thật là một trong những nét ứng xử của người Tày, Nùng. Tìm hiểu nét đặc trưng này thông qua tục giải hạn “Kẻ pác cằm” (giải lời nguyền) của người Tày, Nùng ở Cao Bằng.

Lễ giải hạn của người Tày, Nùng

Người Tày, Nùng cũng như một số tộc người khác quan niệm vũ trụ có ba tầng, gồm: Tầng trời (các vị thần thánh và người âm sống), tầng dưới đất (con người sống), tầng dưới nước (thuộc các loài sống dưới nước). Theo người Tày, Nùng, con người gồm 12 “khoăn” (“Slíp sloong tua khoăn”). Nhưng cũng có người nói khoăn có: “Slam slip khoăn pạng nả/Hả slip khoăn pạng lăng”. Dịch: “Ba mươi khoăn đằng trước/Năm mươi khoăn đằng sau”. Thường thì “khoăn” và thân xác ở cùng nhau. Khoăn là vật dao động, luôn biến đổi, “khoăn” có thể rời thân xác đi chu du trong ba cõi. Khoăn đi lâu không về thì người mệt mỏi, ốm đau, khoăn đi hết thì người sẽ chết. Khi người chết đi khoăn biến thành “phi” (ma), phi cũng như người sống, có phi lành, phi ác. Phi lành phù trợ cho con cháu làm ăn, nhưng nếu con người ứng xử không tốt thì phi lành cũng quay lại quở con cháu, gây hoạn nạn… Người Tày, Nùng tin tưởng vào tổ tiên với lòng tin tuyệt đối thể hiện qua câu thành ngữ: “Mạy slổng nhoòng lảc, mác slổng nhoòng co, cần slổng nhoòng chỏ đẳm”. Dịch: “Cây sống nhờ rễ, quả sống nhờ cành, người sống nhờ tổ tiên”. Do vậy, tổ tiên luôn là vị “phi lành” hộ mệnh.

Phi pác (ma miệng), người Tày, Nùng gọi đôi môi là phi pác. Hai từ này vừa là danh từ, vừa chỉ sự giảo hoạt của đôi môi. Mà điều gì giảo hoạt quá người ta thường liên tưởng đến phi. Họ gắn cho đôi môi là phi pác và cho rằng: Miệng ăn mắm, ăn muối nói những lời gở thì ma miệng sẽ theo đó mà hành: “Phi pác sloong piếng năng. Phuối răng pền răng”. Dịch: “Đôi môi hai miếng da. Nói gì y vậy”. Từ quan niệm về phi pác có sự uy linh nên người ta rất sợ việc quở mắng, nguyền thề độc đối với nhau. Theo họ khi thề độc, cãi vã thì ma miệng lập tức thông tin ngay đến hai vị phi Mang, phi Nguyền (ma mang, ma nguyền) ngụ trên Đồng Mang, Đồng Nguyền biết. Hai vị phi này lập tức cho lời thề độc ứng nghiệm gây họa cho đôi bên.

Do vậy, việc quở hoặc thề độc với những người biết hậu quả là họ tuyệt đối tránh. Với quan niệm “Tốc tẩư mạy chắng thai. Tốc tẩư cần bấu thai”, Dịch: “Rơi từ cây xuống mới chết. Nhường nhịn với người không chết”.

Từ quan niệm về những lời thề nguyền độc ảnh hưởng đến tâm lý, tinh thần của con người, nên khi có chuyện xảy ra, người Tày, Nùng mời thầy đến nhà làm lễ giải hạn (Kẻ pác cằm) để tránh những hậu quả về sau. Để giải lời nguyền, người ta phải mời bảy họ khác nhau đến cùng hóa giải (có trường hợp mời chín họ). Người ta dùng bẹ chuối làm thuyền có mái che để chở điều xấu, điều gở đi. Từ trên mui thuyền người ta cắm con dao nhọn, mũi dao xuyên xuống dưới lòng thuyền (chuôi dao có lỗ tròn). Thuyền giải hạn này đặt cạnh mâm thầy cúng. Từ con thuyền người ta rải hai tấm vải trắng, đen làm cầu âm kéo ra ngoài cửa nhà, đầu cầu đặt vào mép chậu nước (bể nước); trong chậu có ngọn đèn, chiếc thang, gà, vịt sống để tống lời nguyền đi ra sông, ra bể...

lời nguyền bên âm (nghĩa là đời trước các cụ nguyền rủa nhau nay con cháu chịu). Lễ cũng tiến hành như trên nhưng mục hóa giải thì khác, người ta đem các loại ngũ cốc cho vào chảo rang đến khi nổ thành bỏng (phá lời nguyền), riêng ngô hạt lần đầu cho vào 3 hạt, lần thứ hai cho vào 5 hạt, lần thứ ba cho vào 7 hạt… đến khi nào đủ 36 hạt thì thôi (giải đi 36 cái hạn). Tiếp đó, thầy dùng ngô hạt (tượng trưng là đạn mác xá) ném trong bếp, trong nhà ra ngoài cửa (xua đuổi ma Nguyền trong nhà đi)...

Theo dân gian, những người gây chuyện hoặc dùng ma thuật để hại người, nếu người bị hại hóa giải được lời nguyền thì người làm hại sẽ hứng chịu hậu quả do mình làm ra, gia đình lâm vào hoạn nạn.

Từ những quan niệm về “phi pác” mà người Tày, Nùng rất kỵ việc quở nhau hay quở trời, quở đất, hoặc quở cha, mẹ thân sinh. Để răn con cháu, người Tày, Nùng có những câu thành ngữ, tục ngữ như: “Phảm bân, phảm đin, phảm mừa lăng/Phảm pỏ, phảm mẻ lẻ tha hăn”. Nghĩa là: “Phạm trời, phạm đất, hạn về sau/Phạm cha, phạm mẹ họa ngay trước mắt”. Do vậy mà người Tày, Nùng mới có quan điểm “Thẳm cuổi bấu khát dầư”. Nghĩa là: “Chặt chuối không đứt nhựa”. Khuyên con người sống với nhau phải rộng lượng, bao dung: “Mốc quảng chắng pền quan. Mốc luông chắng pền slấy”. Dịch: “Rộng lòng mới thành quan. Rộng tâm mới thành thầy”. Đây là câu thành ngữ cửa miệng của người Tày, Nùng. Và để tránh những điều không hay, người ta nhắc nhở nhau việc ăn nói phải thận trọng: “Mác bấu luổn mì/Phi bấu luổn chảng”. Dịch: “Quả không dưng có/Ma không thể nói bừa”; “Luổn kin, bấu luổn phuối”. Dịch: “Ăn bừa được, không nói bừa được”...

Trong các mối quan hệ, cách ứng xử của người Tày, Nùng có vẻ như không mang tính đấu tranh. Nhưng ngẫm lại thì đó là sự nhẫn nại, nhường nhịn, là sự bao dung, rộng lượng và trân trọng tình người.


Theo Báo Cao Bằng

 

Tags:

Bài viết khác

Độc đáo lễ cưới của đồng bào Ve

Sau thời gian tìm hiểu, cặp đôi quyết định thưa chuyện với cha mẹ hai bên gia đình để tìm mai mối se duyên. Nếu mọi thứ tốt đẹp, một lễ cưới sau đó được diễn ra với nhiều nghi thức truyền thống mang đậm giá trị bản sắc của đồng đồng bào Ve…

Văn hóa dùng đũa: Tinh thần lễ nghĩa trong mỗi bữa ăn Việt

Ẩm thực Việt Nam là sự giao thoa hài hòa giữa các vùng miền, mỗi nơi mang một sắc thái riêng biệt trong cách chế biến, bày biện và thưởng thức món ăn. Tuy nhiên, giữa sự đa dạng ấy, có một điểm chung mang tính biểu tượng, đó là việc sử dụng đũa – một vật dụng giản dị nhưng đầy ý nghĩa trong đời sống ẩm thực của người Việt.

Nét đẹp tâm linh trong nghi lễ buộc chỉ cổ tay của người Khùa

Trong kho tàng văn hóa phong phú của các dân tộc thiểu số Việt Nam, nghi lễ buộc chỉ cổ tay của người Khùa là một nét đẹp tâm linh đặc sắc, phản ánh đậm nét thế giới quan và nhân sinh quan truyền thống. Người Khùa – một nhóm dân tộc sinh sống chủ yếu ở vùng biên giới Việt – Lào, đặc biệt tại huyện Bố Trạch và Minh Hóa (tỉnh Quảng Bình) – vẫn lưu giữ tập tục này như một phần thiêng liêng trong đời sống văn hóa tinh thần.

Cúng Tết Đoan Ngọ và những điều cần lưu ý

Phong tục cúng Tết Đoan Ngọ đã tồn tại từ xa xưa ở Việt Nam, nhưng cúng sao cho đúng, cho đủ lại là điều không phải ai cũng biết.

Lễ tế trâu trên đền tháp Po Klong Garai

Cứ đến chu kỳ 7 năm, tộc họ Cuah lại tổ chức Nghi lễ tế trâu dâng lên thần linh trên đền tháp Po Klong Garai. Đây là dịp để các thành viên trong dòng tộc gặp mặt, cùng nhau tưởng nhớ ông bà, tổ tiên và cũng là cách để bảo tồn các nghi lễ truyền thống của người Chăm, nhất là hát xướng ca của chức sắc ông Kadhar cùng các điệu múa dâng lễ đặc sắc, thu hút người xem.

Đền tháp Po Klong Garai: Biểu tượng vững bền của văn hóa Chăm

Đền tháp Po Klong Garai là một trong những công trình kiến trúc và điêu khắc tiêu biểu và nổi bật của người Chăm được bảo tồn khá nguyên vẹn. Tháp tọa lạc trên đồi Lá trầu (Mbuen Hala), thuộc phường Đô Vinh, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận. Văn khắc bằng chữ Chăm cổ trên đá sa thạch cung cấp những thông tin về văn hóa, lịch sử quý giá như công lao và thần tích của vua Po Klong Garai, các hoạt động tế lễ, cúng bái và tổ chức xã hội của người Chăm

Độc đáo Lễ cưới “ Dứ bà đù” của người Hà Nhì đen (Lào Cai)

Trên mảnh đất biên cương Y Tý, Lào Cai, người Hà Nhì đen vẫn gìn giữ nhiều phong tục truyền thống độc đáo, trong đó lễ cưới “Dứ bà đù” được xem là một nét văn hóa tiêu biểu, phản ánh rõ bản sắc dân tộc và đời sống tinh thần của họ.

Vang danh nghề gốm Lái Thiêu (Bình Dương)

Bình Dương được thiên nhiên ưu đãi có nguồn khoáng sản đất sét và cao lanh rất phù hợp cho nghề làm gốm. Trong những làng gốm ở Bình Dương thì làng gốm Lái Thiêu đã nổi danh trong và ngoài nước bởi sự mộc mạc nhưng không kém phần tinh tế và đậm chất Nam bộ.
Top