Ăn trầu là tập tục có từ lâu đời ở một số quốc gia Ðông Nam Á. Riêng ở Việt Nam, tục lệ này đã có từ hàng ngàn năm qua và đã trở thành một nét đẹp trong bản sắc văn hóa truyền thống từ xưa đến nay.
Tương truyền tục ăn trầu có từ thời Hùng Vương và gắn liền với câu chuyện cảm động về tình cảm anh em, vợ chồng. Từ đó tục ăn trầu đã trở thành một tập quán không thể thiếu trong cuộc sống của người dân Việt Nam. “Miếng trầu là đầu câu chuyện” giúp con người gần gũi, cởi mở với nhau hơn. Miếng trầu nhân lên niềm vui khi khách đến chơi nhà. Mâm cỗ cúng gia tiên cũng không thể thiếu được miếng trầu. Tiệc cưới có đĩa trầu để chia vui. Miếng trầu, còn là tượng trưng cho tình yêu lứa đôi; miếng trầu đi đầu, tác hợp cho lứa đôi và là sợi dây kết chặt mối lương duyên trai, gái thành vợ thành chồng. Để đưa mâm lễ sang thưa chuyện nhà gái, nhà trai không thể thiếu được lá trầu, quả cau.
Mâm trầu cau ngày cưới cho tới ngày nay vẫn còn lưu giữ.
Thông thường khi khách đến nhà, trước tiên, chủ nhà sẽ chuẩn bị một cái chén có đựng nước sạch kèm theo một cái muỗng đặt trên một cái đài để khách súc miệng. Sau đó, chủ nhà mang khay trầu ra tiếp đãi. Trên khay có đĩa đựng trầu, đĩa dựng cau, hủ vôi, hộp thuốc xỉa, dao, đĩa đựng vỏ giấy, vỏ cau… dưới chân lúc nào cũng có một ống nhổ lớn để khách nhổ bả trầu, nước trầu.
Bộ dụng cụ ăn trầu được làm bằng nhiều nguyên liệu da dạng từ đồng, bạc cho đến gốm, bao gồm cơi đựng trầu, bình vôi, chìa vôi, ống nhổ, dao bổ cau, ống ngoáy, chìa ngoáy. Hoa văn trang trí dụng cụ ăn trầu thường là những nét hoa văn, chạm trổ về phong cảnh quê hương đất nước, hoa lá hay động vật.
Miếng trầu gồm bốn loại nguyên liệu: Cau (vị ngọt), lá trầu không (vị cay), rễ (vị đắng), vôi (vị nóng). Cây cau vươn cao biểu tượng của trời (dương). Vôi chất đá biểu tượng của đất (âm). Dây trầu mọc từ đất, quấn quýt thân cây cau, biểu tượng cho sự trung gian. Miếng trầu gồm miếng cau, lá trầu quết vôi, phụ thêm miếng vỏ cây chát (miếng rễ).
Trầu têm cánh phượng rất đẹp và tinh xảo
Tiếp đến là việc têm trầu. Miếng trầu khi được người têm khéo gọi là trầu têm cánh phượng vùng Kinh Bắc và sẽ rất quen thuộc nếu bạn từng nghe câu chuyện Tấm Cám, nhân vật cô Tấm nhờ têm miếng trầu cánh phượng đẹp mà được hoàng tử lấy về làm vợ. Người têm phải khéo léo chọn lá trầu xanh, không bị sâu, gấp đôi lại và cắt chéo theo đường gân. Quyẹt một ít vôi vào giữa lá trầu, rồi gấp phần ở giữa không được cắt lại và để kệ hai cánh lá đã cắt. Cuốn từ từ theo đường từ dưới chỏm lá lên. Dùng cuống lá đâm vào phần lá đã cuộn để cố định, đuôi phượng thì phải chon lá trầu quế vừa tầm để cắt tỉa cánh phượng, chọn lá dày để trang trí phần đuôi. Muốn miếng trầu được đẹp hơn thì cài vào cùng miếng vỏ một cánh hoa hồng tạo thành đuôi cho con phượng.
Nếu khách là người ở tuổi trung niên, có thể nhai miếng trầu trực tiếp và tận hưởng hương vị cay, thơm của miếng trầu. Nếu là người già, sẽ cho miếng trầu têm vào ống ngoáy để ngoáy cho mềm và sau đó mới nhai trầu.
Người nào cũng sẽ được mời ăn trầu khi tới nhà chơi, khách lạ thì dùng miếng trầu làm quen, khách quen thì làm tăng thêm tình nghĩa làng xóm, ngoài ra còn thể hiện sự kính trọng đối với những người già hơn tuổi,..
Người già truyền dạy lại cho con cháu nét đẹp truyền thống cha ông
Ngoài phong tục dùng trầu tiếp khách ngày nay ít dùng thì có một phong tục vẫn giữ cho đến thời nay đó là sử dụng trầu cau trong lễ ăn hỏi, dựng vợ gả chồng. Muốn cưới vợ phải có trầu cau mang sang nhà gái, dù hoàn cảnh nào giàu hay nghèo khó. Mâm trầu trong lễ cưới sẽ tượng trưng cho tình yêu lứa đôi, thể hiện sự gắn kết không thể tách rời.
Tuy rằng tục ăn trầu ngày nay đã ít dùng nhưng nó vẫn là một nét đẹp văn hóa, một di sản cần được bảo tồn, trân trọng và gìn giữ. Để thế hệ sau biết đến câu chuyện về nguồn cội của mình, về những phong tục tập quán tốt đẹp còn lưu giữ.
Phụng Nguyễn