So với bất cứ một hình thức tín ngưỡng và tôn giáo hiện có, trong tín ngưỡng thờ Mẫu tất cả các vị Thánh trong điện Thần từ Ngọc Hoàng, Thánh Mẫu, tới các hàng Quan, Chầu, Ông Hoàng, Cô, Cậu thậm chí cả Ngũ Hổ và Ông Lốt (rắn) đều được hình tượng hóa bằng hệ thống các tượng, tranh vẽ và diễn xướng Thánh giáng Đồng. Nói cách khác, mỗi vị Thánh đều có tượng đắp, tranh vẽ, có những giờ phút giáng đồng với hình hài, trang phục, động tác, lời phán truyền. Bởi thế, có thể nói tín ngưỡng thờ Mẫu là thứ tín ngưỡng hình tượng.
Cho tới nay ở nước ta chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập trực tiếp tới hệ thống tượng thờ Mẫu Tứ phủ. Bởi thế, từ góc độ văn hóa và tín ngưỡng, chúng tôi chỉ có thể nêu những nhận xét bước đầu về lĩnh vực còn mới mẻ này.
Không có ngôi đền phủ thờ Mẫu Tứ phủ nào lại không có tượng. Tuy nhiên, tùy theo từng ngôi đền vị Thánh nào là chính thì tượng vị Thánh đó làm to, đẹp hơn và thường là đặt ở vị trí trang trọng. Trong quần thể các di tích Phủ Dầy, nơi thờ chính của Thánh Mẫu Liễu Hạnh, ngoài tượng Thánh Mẫu được đặt trang trọng ở hậu cung thì còn có hàng trăm bức tượng khác của các vị thần thánh thuộc điện thần Tứ phủ. Những đền, phủ ở các nơi khác cũng vậy.
Tuy hệ thống tượng khá phong phú, những tượng thờ Mẫu là những tượng từng có niên đại khá muộn, không có bức nào có niên đại trước giữa thế kỷ XIX, phần nào đó trùng khớp với thời gian xây dựng và trùng tu lớn các đền phủ. Nếu truy về gốc gác xa hơn thì tượng Mẫu Tứ phủ đặt trong chùa cũng chỉ khoảng thế kỷ XVI. Còn nữ hình tượng Quan Âm (có nơi gọi là Quan Âm Thánh Mẫu) thì cũng chỉ mới có hình tượng cách đây 150 năm (theo nhà nghiên cứu Trần Lâm Biên). Vào phía Nam, tới Tháp Bà Nha Trang, tới Linh Sơn Thánh Mẫu – Bà Đen (Tây Ninh) hay điện Bà Chúa Xứ ở Núi Sam, An Giang thì tượng thờ Mẫu lại mang sắc thái riêng, thể hiện tính hỗn dung và hội nhập văn hóa Việt – Chăm, Việt – Khmer. Nói cách khác, những bức tượng Mẫu đang được người Việt thờ cúng ở các nơi kể trên đều có nguồn gốc là tượng Chăm, tượng Khmer, được “phủ” ra ngoài sắc thái Việt và trở thành Mẫu của người Việt.

Hệ thống thần linh trong thần điện của tín ngưỡng Thờ Mẫu Tứ Phủ với đầy đủ các hàng: Chư phật, Vua Cha, Thánh Mẫu, Quan Lớn, Tứ Phủ Chầu Bà, Tứ Phủ Ông Hoàng, Thánh Cô và Thánh Cậu.
Tượng Mẫu Tứ phủ ở các đền, phủ phía Bắc đều tạc bằng gỗ rồi sơn son thếp vàng giống như nhiều tượng thờ khác. Tượng ba hay bốn vị Thánh Mẫu tạc phong cách các nữ thần nông nghiệp, đẹp, phúc hậu, nghiêm chỉnh, nhưng lại mang tính tượng trưng. Những bức tượng của các vị thần thấp hơn, nhất là các vị hàng Chầu, hàng Cô, Cậu…thì tính tượng trưng cũng giảm đi, những nét mang cá tính thấy rõ hơn. Cũng dễ hiểu, vì đó là những hóa thân của Mẫu trong thế giới trần gian. Khi giáng đồng cũng vậy, Thánh Mẫu chỉ giáng chứ không nhập nên các giá Mẫu không mở khăn, không làm việc Thánh, còn từ các giá hàng Quan trở xuống thì Thánh nhập đồng, bước ra để làm việc Thánh hệt như người trần.
Tượng các Thánh trong tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ, từ nét mặt đến cách thức phục trang đều khá hiện thực, không khác mấy với người đời. Nét mặt đẹp, phúc hậu, đầu đội hay trùm khăn, tay cầm quạt… tuy mang tính tượng trưng nhưng đó là tượng trưng của con người trong đời sống hiện hữu, không cao sang như vua chúa trong triều, mà bình dị hơn, có nét hao hao như Bà, như Ông ta vậy. Bởi lẽ suy cho cùng những tượng Mẫu này thể hiện những giấc mơ, những khát vọng, quan niệm thẩm mỹ của người nông dân vùng quê.
Có một số lượng đáng kể những tượng Mẫu được thờ cúng trong các ngôi chùa, như tượng Tam Tòa Thánh Mẫu, Vua Cha, các Quan các Ông Hoàng, các Cô, Cậu… nhưng theo Trần Lâm Biên thì điện Mẫu và những bức tượng này cũng chỉ hiện hữu trong các ngôi chùa muộn, vào khoảng thế kỷ XIX - XX, chưa thấy ngôi chùa có điện Mẫu và tượng Mẫu có niên đại sớm hơn.
Trong các Đền phủ, ngoài tượng thờ còn có tranh thờ. Đây là những tranh thờ dân gian, chất liệu và phong cách vẽ mang tính chất dân gian rõ rệt. Đây là những bức tranh được vẽ, được in bán tại lò tranh Đông Hồ, Hàng Trống, Kim Hoàng quen thuộc như bao tranh dân gian khác. Trong bộ tranh thờ Mẫu Tứ phủ này có nhiều bức:
Tranh “Tứ phủ” vẽ thành nhiều lớp. Trên cùng là Phật, sau đến Ngọc Hoàng – Tứ vị Ngọc Hoàng (trời, đất, nước, rừng núi), lớp thứ ba là Tam Tòa Thánh Mẫu, sau nữa là Ngũ vị Ông Hoàng, dưới Ông Hoàng là Tứ vị Thánh Mẫu (các Chầu), lớp thứ tư là Cậu Quận và cuối cùng là Bát vị Thành Cô. Bức tranh này đã nêu một cách khái quát nhất điện thần Tứ phủ.
Tranh Tam phủ thì lại vẽ thành ba lớp. Lớp trên cùng Phật Kim Đồng và Ngọc Nữ chầu hai bên. Lớp thứ hai là Ngọc Hoàng: Ba vị Ngọc Hoàng có Nam Tào và Bắc Đẩu chầu hai bên. Lớp thứ ba là Bốn vị Thánh Mẫu (trời, đất, nước, rừng núi).

Tranh Ngũ Hổ hàng Trống được vẽ đẹp mắt, tinh xảo.
Có những bức tranh vẽ riêng từng Thánh Mẫu, như tranh Thánh Mẫu Thượng Thiên cai quản vùng trời xung quanh có 12 cô tiên nữ chầu xung quanh. Tranh Thánh Mẫu Thượng Ngàn (cai quản vùng núi) ngồi trên võng, hai đầu võng mắc vào hai chạc cây, xung quanh có 12 tiên nữ đứng chầu. Tranh Đức Mẫu Thoải (cai quản sông nước) ngồi trên sập xung quanh có tiên nữ đứng chầu. Ngoài ra còn có bức tranh: Ông Hoàng cưỡi ngựa cầm quân, tranh Ông Hoàng cưỡi cá (hay rắn), tranh Cậu Quận cưỡi ngựa. Đặc biệt hơn cả là phải kể tới tranh Ngũ Hổ hay còn gọi là tranh Ông Năm Dinh, vẽ 5 con hổ màu sắc khác nhau, trong đó Hoàng Hổ, tướng quân màu vàng trấn nhậm trung khu (Địa khu), Hắc hổ tướng quân màu đen trấn nhậm Bắc khu (Thủy khu), Bạch hổ tướng quân màu trắng trấn nhậm Tây khu (Kim khu), Xích hổ tướng quân màu đỏ trấn nhậm Nam khu (Hỏa khu) và Thanh hổ tướng quân màu xanh trấn nhậm Đông khu (Mộc khu). Trong thờ Mẫu Tứ phủ và trong tín ngưỡng dân gian khác, Hổ là con vật tượng trưng cho sức mạnh thiêng liêng có thể trấn giữ, xua đuổi tà ma.
Màu sắc của tranh thờ Tứ phủ dùng 5 màu chính: xanh, vàng, đỏ, trắng, đen tức là ngũ sắc theo quan niệm ngũ hành, ngũ phương. Bên cạnh đó còn dùng các màu vàng kim, bạch kim óng ánh để điểm xuyết, gây cảm giác tươi sáng, rực rỡ, lộng lẫy vốn là màu sắc chủ đạo của tín ngưỡng này. Bố cục của tranh thờ không phụ thuốc vào quy luật viễn cận, mà thường là tùy theo chủ đề, nhân vật mà người nghệ nhân muốn thể hiện để quy định mức độ to nhỏ, nhằm gây những ấn tượng cho người xem tranh.
Trong số các tranh thờ này, có những bức tranh đạt giá trị nghệ thuật cao, điển hình là tranh Ngũ Hổ, tranh Hắc Hổ. Ở đây có sự kết hợp bố cục tranh 5 con Hổ rất chặt chẽ, các dáng ngồi của Hổ tiềm tàng sức mạnh, các đường nét và màu sắc khi thể hiện râu, nét mặt, ánh mắt rất sinh động. Có thể coi bức tranh Ngũ Hổ này như là một trong những tuyệt tác của nghệ thuật tranh dân gian.
Ban Nghiên cứu VHTN phía Nam