banner 728x90

Mỹ tục Kỳ Yên của người Nam Bộ

10/03/2025 Lượt xem: 2430

Trải qua mấy trăm năm tồn tại, tục thờ Thần đã trở thành văn hóa tín ngưỡng của người dân Nam Bộ. Trong đó, tục Kỳ Yên là cổ lệ lớn nhất, nơi để người dân phương Nam cầu nguyện một cuộc sống no đủ. Từ tháng Giêng cho đến tháng Tư, khi cứ vào độ trăng tròn tỏa sáng là xóm làng khắp Nam Bộ thay nhau rộn ràng thượng lễ Kỳ Yên. Trẻ em xúng xính áo mới, người lớn tươm tất y phục chỉnh tề, tụ hội về đình làng cùng nhau khai hội.

Dâng cúng lễ vật tại Lễ Kỳ Yên tại An Giang (Ảnh: Kim Loan)

Buổi đầu đi khai phá vùng đất phương Nam đầy “sương lam chướng khí”, đứng trước thiên tai và hiểm họa khôn lường, những lưu dân Nam tiến đầu tiên đã nghĩ đến việc thờ cúng Thần để cầu an cho xóm làng.

Lễ Kỳ Yên là nghi lễ cầu cho “mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an”. Tùy theo phong tục mỗi nơi mà lễ này sẽ được ấn định về thời gian, thứ tự và chi tiết. Tuy nhiên, thường thì các Lễ Kỳ Yên phải được tiến hành trang trọng tại một ngôi đình, đền, miếu… thời gian tổ chức trong 3 ngày, gồm 2 phần: Lễ và Hội.

Đình làng ở Nam Bộ mỗi năm có 2 lệ cúng, đó là: Lễ Thượng điền (khi thu hoạch xong) và lễ Hạ điền (khi bắt đầu xuống ruộng). Tục Kỳ Yên có thể gộp chung với Thượng Điền hoặc Hạ Điền, hay được tổ chức thành một lễ riêng biệt, tùy  từng địa phương. 

Ông Nguyễn Bá Vinh – Trưởng ban Tế tự Đình thần Mỹ Phước, TP.Long Xuyên, tỉnh An Giang, chia sẻ, mục đích trước tiên của buổi lễ là cầu nguyện thần linh phù hộ độ trì cho quốc thái dân an, phong hòa vũ thuận, gia gia an lạc.

“Mình cúng để thể hiện lòng biết ơn đó chính là đạo lý làm người. Chúng tôi muốn nhắc nhở đến bà con rằng, chúng ta là người Việt Nam, luôn luôn có truyền thống uống nước nhớ nguồn. Người Việt Nam cũng luôn luôn ghi nhận công lao của các bậc tiền nhân đã có công khai mở bờ cõi, giữ gìn đất nước và tạo điều kiện cho chúng ta có cuộc sống yên lành như hôm nay”, ông Vinh nói.

Từ tín ngưỡng đó mà Lễ hội Kỳ Yên ở mỗi địa phương đều có chung một điểm là được tổ chức rất trang trọng ở phần Lễ và vui tươi ở phần Hội. Trong phần Lễ có các nghi thức: rước sắc thần về đình; dâng hương, dâng rượu, dâng trà, đọc bài văn tế cầu nguyện và cảm tạ các thần Thành Hoàng, Tiên hiền, Hậu hiền, thần Nông, thần Hổ, ông Nam Hải, bà Ngũ Hành… đã phù hộ cho dân làng có được cuộc sống ấm no. Những người đứng ra tế lễ hoặc tham gia vào nghi thức tế lễ thường là những bậc cao niên, người có chức sắc, hoặc có uy tín trong cộng đồng dân cư.

Lễ Thay khăn Sắc Thần trong Lễ Kỳ Yên tại đình Bình Thủy (Cần Thơ)

Điều làm nên nét đặc sắc của tục Kỳ Yên đó là phần hội. Phần hội ở đây thường gồm các chương trình: múa lân, múa rồng, các trò chơi dân gian. Người dân đến với Lễ Kỳ Yên ngoài mục đích cầu phước, cầu tài, cầu lộc, cầu thọ, còn là dịp ôn lại truyền thống lịch sử của ông cha đã khai hoang lập ấp. Đồng thời, được thỏa sức thưởng thức các chương trình nghệ thuật, như: hát bội, cải lương. Trong ngày Lễ Kỳ Yên, hát xướng văn nghệ không chỉ để giải trí thông thường mà chương trình văn nghệ được xây dựng có nội dung hàm chưa các đạo lý và  kết thúc có hậu.

Lễ Kỳ Yên cũng là dịp để mọi người thi thố tài nghệ, sự khéo léo thông qua các vật phẩm cúng tế, trưng bày được kết bằng hoa quả, cây lá, sản vật địa phương… Một số nơi, Lễ Kỳ Yên còn là dịp để giới thiệu các loại trái cây đầu mùa. Hay có nơi còn tổ chức đua ghe, đua xuồng, triển lãm gia súc, gia cầm…

Đam mê xem hát bội vui vẻ, ông Hồ Văn Hậu, người dân đi cúng Lễ Kỳ Yên ở đình Phú Hựu (Đồng Tháp) cho biết: Ngày xưa cúng đình là chỉ có hát bội thôi, nay có thêm hò quảng nữa. Cứ hát ở đâu là tôi đi theo đó vì tôi rất mê loại hình nghệ thuật này.

Ở Nam Bộ có đến hàng trăm ngôi đình, đền, miếu…hằng năm, các nơi này hầu hết đều tổ chức Lễ Kỳ Yên. Dựa trên mốc lịch sử ra đời, quy mô tổ chức và những cổ lệ được truyền thừa trong lễ hội mà nhiều Lễ Kỳ Yên ở một số địa phương đã được công nhận là Di sản phi vật thể quốc gia của Việt Nam.

Tại Lễ hội Kỳ Yên đình Bình Thủy, phường Bình Thủy, quận Bình Thủy, TP. Cần Thơ, Lễ hội được tổ chức cố định từ ngày 12 - 14, tháng tư (âm lịch). Đình Bình Thủy là công trình có giá trị về kiến trúc nghệ thuật cổ truyền của người Việt giai đoạn khai hoang miền Tây Nam Bộ được xây dựng vào năm 1844 và vua Tự Đức phê sắc phong thần cho làng là Bổn Cảnh Thành Hoàng vào ngày 29/11 năm Nhâm Tý (1852).

Lễ hội Kỳ Yên đình Bình Thủy là minh chứng quan trọng về lịch sử định cư trên vùng đất này của người Việt; Sắc phong vua ban thể hiện sự công nhận của chế độ quân chủ về mặt hành chính, sự hình thành làng xã và ngôi đình thờ Thành Hoàng. Nghi Lễ Kỳ Yên góp phần củng cố niềm tin của cộng đồng về cuộc sống bình yên, thể hiện văn hóa đặc trưng của cư dân gốc nông nghiệp lúa nước, cầu cho mưa thuận, gió hòa, trời yên, biển lặng...

Với giá trị tiêu biểu, Lễ hội Kỳ Yên đình Bình Thủy được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia năm 2018.

Lễ Kỳ Yên là biểu tượng của tinh thần đoàn kết và lòng biết ơn sâu sắc mà người dân Nam Bộ dành cho tổ tiên và quê hương. Đây là một phần của lịch sử mà còn là một phần của hồn cốt, góp phần làm phong phú thêm bản sắc văn hóa đặc trưng của Nam Bộ. Cũng chính vì là cổ lệ tốt đẹp được sinh ra từ trong quá trình lao động mà nhiều thế hệ tiếp nối ở Tây Nam Bộ đã có ý thức giữ gìn, phát huy để lấy đó làm niềm tự hào của riêng quê hương mình.

Nguồn: Báo dân tộc

 

Tags:

Bài viết khác

Nhạc cụ truyền thống trong hát Chầu Văn

Hát Chầu văn hay còn được gọi là hát văn hay hát hầu đồng là một loại hình nghệ thuật ca hát cổ truyền và một phần tín ngưỡng thờ Mẫu của văn hóa Việt Nam. Đây là hình thức lễ nhạc gắn liền với nghi thức hầu đồng của tín ngưỡng Tứ phủ (tín ngưỡng thờ Mẫu) và tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần (Trần Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuần), một tín ngưỡng dân gian Việt Nam.

Nét văn hóa tâm linh trong kiến trúc nhà thờ họ

Kiến trúc nhà thờ họ là biểu tượng vật chất đậm nét văn hóa phi vật thể của các tộc họ ở Việt Nam. Đây là nơi lưu giữ giá trị, tổ chức, quan hệ, và thành tựu của mỗi dòng tộc qua nhiều thế hệ. Theo truyền thống, nhà thờ họ thường được xây dựng theo cấu trúc đơn giản nhưng hài hòa, mang đậm nét riêng của văn hóa dân gian.

Vai trò và ý nghĩa của nhà thờ họ tại Việt Nam

Nhà thờ tổ hay từ đường là một ngôi nhà dành riêng cho việc thờ cúng tổ tiên của một dòng họ hay từng chi họ tính theo phụ hệ (dòng của cha). Nhà thờ họ phổ biến trong văn hóa người Việt tại khu đồng bằng và trung du Bắc Bộ và Trung Bộ.

Tứ quý trong tranh dân gian Đông Hồ

Tranh Tứ quý thuộc loại tứ bình (bốn bức) khổ lớn, vẽ cảnh tứ thời: Xuân, hạ, thu, đông. Mỗi mùa có một loài cây, loài hoa đặc trưng. Mùa xuân: hoa mai, hoa lan, hoa đào. Mùa hạ: hoa sen, hoa hồng, hoa lựu. Mùa thu: hoa cúc, hoa phù dung. Mùa đông: cây trúc, cây thông (tùng).

Cỗ và mâm cỗ truyền thống của người Việt

Mâm cỗ ở mỗi vùng quê Việt Nam có hương vị riêng nhưng bao giờ cũng vậy, mỗi mâm có 4 hoặc 6 người. Thông thường người ta kiêng ngồi 5 người, ở mâm cỗ có ít nhất hai người thân nhau, cũng có khi 3 cặp đều thân nhau thành một cỗ. Người nhà chủ tế nhị mời những người ăn ý với nhau vào một cỗ, sàn sàn lứa tuổi với nhau vào cùng mâm. Những người có tửu lượng mạnh hoặc nhẹ vào một cỗ, những người bằng vai phải lứa với nhau vào một cỗ. Đàn ông vào cỗ với nhau, còn đàn bà ngồi với đàn bà.

Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ Việt Nam

Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều mang trong mình những nét văn hóa riêng. Văn hóa là cái gốc cho sự phát triển, phồn thịnh của một đất nước. Việt Nam là một dân tộc mang một nền văn hóa đậm đà bản sắc, đa dạng và phong phú. Tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam từ lâu đã đóng vai trò quan trọng đối với người dân Việt, văn hóa tín ngưỡng có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống xã hội và tâm thức người dân.

Tín ngưỡng dân gian trong lễ hội cổ truyền ở Việt Nam

Tín ngưỡng dân gian đóng vai trò quan trọng trong các lễ hội cổ truyền của Việt Nam, thể hiện bản sắc văn hóa, tâm linh và lòng tôn kính đối với các thế lực siêu nhiên, Tổ tiên, thần thánh. Bài viết tìm hiểu một số đặc điểm nổi bật về tín ngưỡng dân gian trong các lễ hội cổ truyền của người Việt, đặc biệt, lễ hội liên quan đến tín ngưỡng dân gian như: tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng vạn vật hữu linh, tín ngưỡng thờ Thành hoàng, tín ngưỡng thờ Tổ tiên, tín ngưỡng thờ Mẫu...

Ý nghĩa và mục đích của tục “Bán khoán con lên chùa”

Bán khoán con cho chùa là một tín ngưỡng dân gian, một hình thức gửi gắm về mặt tâm linh. Có hai hình thức bán khoán con lên chùa: Bán khoán đến hết năm 12 tuổi rồi “chuộc” con ra, hoặc là bán khoán trọn đời. Từ xưa đến nay, nhiều gia đình quan niệm, khi sinh con ra, đứa trẻ hay đau yếu, khóc lóc không phải là do bị bệnh từ thân hoặc những đứa trẻ sinh vào giờ kỵ, ngày phạm (tức ngày mùng 1, 5, 8, 15, 23, 24, 28 và ngày 30 Âm lịch).
Top