banner 728x90

Lễ kết nghĩa của người Cơ Tu – Sợi dây đoàn kết giữa làng, xã

08/12/2025 Lượt xem: 2361

Trong tâm thức của người Cơ Tu, mối quan hệ giữa làng với làng, xã với xã không chỉ đơn thuần là láng giềng mà còn là sự gắn kết máu thịt qua những lời thề nguyền. Lễ kết nghĩa (Prongooch) chính là minh chứng sống động nhất cho truyền thống nhân văn đó.

Lễ kết nghĩa được tổ chức để giữ mối quan hệ ngày càng tốt đẹp, đoàn kết hơn giữa đồng bào tại các làng, xã với nhau

Lễ kết nghĩa người Cơ Tu gọi là Prongooch có nghĩa là proliêm (làm mối quan hệ tốt đẹp hơn), pro âm (mời uống rượu với nhau để giữ mối quan hệ gắn chặt, đậm tình).

Chính vì ý nghĩa đó mà lễ kết nghĩa tồn tại đến nay tạo ra tính nhân văn trong mối quan hệ giữa làng với làng, xã với xã.

Ngày xưa, người Cơ Tu tổ chức lễ kết nghĩa khi hai bên xảy ra mâu thuẫn. Để mâu thuẫn đó không kéo dài ảnh hưởng đến cuộc sống sau này, sẽ có một bên chủ động kết nghĩa để mối quan hệ giữa hai bên được hài hòa, gắn bó.

Còn hiện nay, lễ kết nghĩa được tổ chức không xuất phát từ sự mâu thuẫn mà là để giữ mối quan hệ ngày càng tốt đẹp, đoàn kết hơn.

Trước khi tổ chức lễ kết nghĩa, già làng bên chủ động kết nghĩa phải có chuyến "đi sứ" để trao đổi, bàn bạc với phía được kết nghĩa

Qua đó, cùng giúp nhau phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, giữ vững an ninh, chính trị, giao lưu văn hóa, phát triển du lịch...

Tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam (Đoài Phương, Hà Nội), đồng bào Cơ Tu tại thành phố Đà Nẵng vừa tái hiện lễ kết nghĩa giữa xã Sông Kôn và xã Đông Giang. Bên xã Sông Kôn chủ động kết nghĩa, còn xã Đông Giang là bên được kết nghĩa.

Sau khi hai bên đã thống nhất tổ chức lễ kết nghĩa và chuẩn bị đầy đủ các lễ vật để phục vụ lễ kết nghĩa.

Bên xã Sông Kôn đã dựng nêu, chuẩn bị trống chiêng, trâu, bò, heo, cơm, rượu trắng, trà thuốc...  Còn bên Đông Giang chuẩn bị bánh sừng trâu, cơm lam, xôi, gà, chim, cá ếch, rượu cần, tấm tút...

Việc tổ chức kết nghĩa luôn được bàn bạc, trao đổi kỹ lưỡng để tổ chức chu toàn, đón khách và tiếp đãi trang trọng

Trước ngày tổ chức lễ kết nghĩa, một thủ tục rất quan trọng đó là đồng bào Cơ Tu bên xã Sông Kôn cử đại diện 2 già làng đến xã Đông Giang để bàn chuyện kết nghĩa.

Sau đó, già làng ở Sông Kôn tổ chức họp để nghe hai cụ cử đi mời bà con ở xã Đông Giang báo cáo tình hình như: thời gian, số lượng khách ở xã Đông Giang đến Sông Kôn...

Trong ngày tổ chức lễ kết nghĩa, trước khi bà con Cơ Tu xã Đông Giang có mặt, già làng tại xã Sông Kôn đã tổ chức lễ cúng để báo với Giàng, với thần linh, trời, đất đang bảo vệ, che chở cho người dân của xã về việc tổ chức lễ kết nghĩa với xã Đông Giang.

Mâm lễ vật cúng được chuẩn bị chu đáo, kỹ lưỡng

Các già làng cầu cho giàng, thần linh, trời, đất đừng trách móc mà hãy phù hộ cho hai xã tổ chức lễ suôn sẻ, không để xảy ra những điều không hay trong ngày hôm nay và về sau này.

Khi đoàn của xã Đông Giang đã đến ngõ của địa điểm tổ chức, già làng ở xã Sông Kôn cử đại diện để đón khách tại ngõ (người Cơ Tu gọi là ga nâu).

Các thanh niên, phụ nữ nhận các lễ vật từ người Cơ Tu xã Đông Giang mang theo như cơm lam, bánh sừng trâu, xôi, gà, vịt, cá, ếch, rượu cần, tà vạc, tro đin, tấm tút...

Khi đã tiếp nhận các lễ vật xong, đại diện già làng xã Sông Kôn mời rượu và nói lý với đoàn xã Đông Giang.

Tại mỗi lễ hội, ngày vui của gia đình, làng, xã nói lý, hát lý là nghệ thuật diễn xướng dân gian của người Cơ Tu không bao giờ thiếu được

Các già làng làm lễ cúng báo với Giàng, thần linh, trời, đất về việc hai bên tổ chức kết nghĩa

Sau khi thủ tục mời rượu và nói lý của bên xã Đông Giang kết thúc, đại diện già làng xã Sông Kôn dẫn đoàn xã Đông Giang quay một vòng cây nêu lúc này tiếng chiêng, tiếng trống vang lên chào đón.

Tại địa điểm tổ chức, các già làng, bà con Cơ Tu  xã Sông Kôn đã có mặt đầy đủ, chào đón, bắt tay với bà con xã Đông Giang và mời người ở xã Đông Giang dùng nước.

Khi đã ổn định hai bên nói lý, hát lý. Nghệ thuật nói lý, hát lý mang tính ứng khẩu nhanh, thấu tình đạt lý, phức tạp sâu lắng về ý tứ, cô đọng về tính chất, thâm thúy về nội dung.

Lễ kết nghĩa khép lại trong thanh âm rộn rã của trống chiêng và vũ điệu Tântung Dadă

Từ đó, bắt đối phương phải suy nghĩ cân nhắc và chắt lọc ý tứ, thể hiện sự am hiểu để hát trả đối phương của bên hát trước. Nói lý, hát lý có những cách thể hiện khác nhau.

Do vậy, không phải ai cũng có thể am hiểu hết được nghĩa của việc nói lý, hát lý. Muốn nói lý, hát lý được hay, ứng khẩu giỏi thì mới học nói lý, hát lý được. Để muốn hát lý thì phải có nói lý trước.

Năm 2015, nói lý, hát lý được Bộ VHTTDL công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

Do đó, tại mỗi lễ hội, ngày vui của gia đình, làng, xã nói lý hát lý là nghệ thuật diễn xướng dân gian của người Cơ Tu không bao giờ thiếu được.

Tại lễ kết nghĩa này, bà con đồng bào Cơ Tu xã Sông Kôn và xã Đông Giang nói lý, hát lý đều mang ý nghĩa về kết nghĩa, tình đoàn kết giữa hai bên.

Trước đây mối quan hệ đã hài hòa tốt đẹp và sau khi tổ chức lễ kết nghĩa thì càng tốt đẹp hơn, gắn chặt hơn không để xảy ra mâu thuẫn.

Sau khi đã nói lý, hát lý xong hai bên làm lễ cúng báo với Giàng, thần linh, trời, đất hai bên tổ chức kết nghĩa.

Lễ vật cúng được bày ra mâm và tổ chức cúng tại lều cúng chuẩn bị trước đó. Mâm cúng chuẩn bị đầy đủ tất cả các lễ vật của người Cơ Tu xã Sông Kôn và Đông Giang đã mang theo như đầu heo, gà, cá, xôi, huyết heo, huyết gà, rượu, trà thuốc, đũa thần...

Những điệu múa thể hiện nét dịu dàng, uyển chuyển của người phụ nữ Cơ Tu

Sau khi thực hiện thủ tục cúng, hai bên mời rượu cho nhau để Giàng và thần linh chứng kiến từ hôm nay hai xã đã trở thành bạn bè thân hữu và hứa với Giàng, với thần linh sau khi tổ chức lễ hai xã sẽ không để xảy ra bất cứ mâu thuẫn, có khó khăn hoạn nạn cùng nhau giúp đỡ, luôn thể hiện tình keo sơn, đoàn kết, gắn bó; đồng thời cùng nhau phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo.

Lễ kết nghĩa khép lại trong thanh âm rộn rã của trống chiêng và vũ điệu Tântung Dadă. Nếu Tântung là điệu múa của nam giới, thể hiện sự mạnh mẽ, vươn lên của đấng nam nhi, thì Dadă là nét dịu dàng, uyển chuyển của người phụ nữ Cơ Tu.

Năm 2014, vũ điệu này đã được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, là niềm tự hào và là mạch máu chảy mãi trong lòng mỗi người dân Cơ Tu.

Lễ kết nghĩa của người Cơ Tu ở xã Sông Kôn - Đông Giang không chỉ là một nghi thức truyền thống, mà còn là ngọn lửa sưởi ấm tình anh em, là lời khẳng định về sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc giữa lòng thành phố Đà Nẵng hiện đại.

Nguồn Báo Văn hóa

 

Tags:

Bài viết khác

Nhà thờ lớn nhất Việt Nam chính thức được khánh thành

Nhà thờ giáo xứ Lãng Vân thuộc xã Gia Vân (tỉnh Ninh Bình) sau hơn 10 năm xây dựng đã chính thức khánh thành và đi vào hoạt động trước thềm Giáng sinh và chào đón năm mới 2026, đây được xem là nhà thờ lớn nhất Việt Nam.

Ngôi chùa cổ ở Cần Thơ có vị trụ trì được phong liệt sĩ

Chùa Hội Linh (Hội Linh Cổ Tự) cách đường Cách Mạng Tháng 8 (P.Bình Thủy, TP.Cần Thơ – trước đây là P.Bùi Hữu Nghĩa, Q.Bình Thủy, TP.Cần Thơ) khoảng 200m, hướng ra sông Hậu. Ngôi chùa cổ này có diện tích 6.500 m2, không chỉ là nơi gửi gắm niềm tin tôn giáo, mà còn là một di tích lịch sử với những vị trụ trì, tăng ni giàu lòng yêu nước.

Tết Hoa mào gà – Nét văn hóa độc đáo của người Cống nơi cực Tây Tổ quốc

Mỗi độ cuối tháng 11 âm lịch, khi những rẫy ngô, nương lúa đã thu hoạch xong, bà con dân tộc Cống ở xã Nậm Kè, tỉnh Điện Biên lại tất bật chuẩn bị cho Tết Hoa mào gà – lễ tết cổ truyền quan trọng và lớn nhất trong năm. Đây không chỉ là dịp để người Cống tưởng nhớ tổ tiên, tạ ơn trời đất sau một năm lao động vất vả, mà còn là dịp hội tụ, gắn kết cộng đồng, gửi gắm khát vọng về một năm mới bình an, no đủ.

Chùa Ông (TP.Cần Thơ): Nơi giao thoa văn hóa, tín ngưỡng và kiến trúc cổ kính

Chùa Ông, hay còn được gọi là Quảng Triệu Hội Quán, là một di tích lịch sử và văn hóa độc đáo của thành phố Cần Thơ, nằm ở bến Ninh Kiều – trung tâm sầm uất và du lịch của miền Tây. Ngôi chùa này không chỉ nổi bật với giá trị văn hóa tín ngưỡng mà còn là một minh chứng sống động cho nghệ thuật kiến trúc đặc sắc của người Hoa.

Nhiều điều thú vị về mộ Bà Rịa được làm rõ

Cái tên địa phương Bà Rịa - Vũng Tàu vốn gây nhiều sự tò mò, chú ý của người phương xa. Nay, thông tin về Bà Rịa đã được làm rõ hơn trong Hội thảo khoa học "Mộ Bà Rịa và giá trị di sản văn hoá”.

Kiến trúc tinh xảo của đình Ông Voi 300 tuổi, lưu giữ 10 đạo sắc phong của vua

Gần 300 năm tuổi, đình Ông Voi ở Hội An (Đà Nẵng) nổi bật với hậu tẩm hai tầng, cặp tượng voi uy nghi trước sân và hiện còn lưu giữ 10 đạo sắc phong, trở thành điểm nhấn văn hóa - tín ngưỡng đặc sắc của cư dân phố cổ.

Lễ hội Nghinh Ông Thắng Tam – Dấu ấn văn hóa biển độc đáo của Vũng Tàu

Lễ hội Nghinh Ông Đình Thắng Tam là một trong những lễ hội lâu đời có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với ngư dân Vũng Tàu (TP. Hồ Chí Minh). Đây không chỉ là sinh hoạt tín ngưỡng quan trọng gắn với đời sống ngư dân mà còn là di sản văn hóa phi vật thể mang đậm bản sắc của cư dân miền biển.

Chiêm ngưỡng bảo vật quốc gia văn hóa Óc Eo

Không gian phân bố của văn hóa Óc Eo ở khắp các tỉnh Nam bộ, nhưng những di tích, di vật tiêu biểu nhất tập trung trên địa bàn An Giang. Hiện, tỉnh có 10 bảo vật quốc gia đều thuộc văn hóa Óc Eo, được lưu giữ và trưng bày ở Bảo tàng tỉnh và Ban Quản lý Di tích Văn hóa Óc Eo.
Top