banner 728x90

Mẫu Po Inư Nưgar trong tâm thức người Chăm

17/07/2024 Lượt xem: 2760

Thờ Mẫu là tín ngưỡng dân gian của cư dân nông nghiệp, có giá trị văn hóa tinh thần cao đẹp của các dân tộc Việt Nam. Đối với người Chăm, Nữ thần Po Inư Nưgar là biểu tượng linh thiêng nhất về Mẹ. Ngày nay các huyền thoại, truyền thuyết, kiến trúc, lễ hội…về Nữ thần vẫn còn tồn tại và in đậm trong đời sống nhân dân.

Nữ thần Po Inư Nưgar được coi là người Mẹ xứ sở của người Chăm, là người sáng lập ra vương quốc Champa. Từ thời cổ đại đến thời cận đại đã có rất nhiều thần thoại viết về nguồn gốc của Nữ thần.

Theo truyền thuyết Bà là vị thần từ cõi trời xuống trần gian. Bà có 97 người chồng, 36 người con. Nữ thần có nhiều tên gọi khác nhau: Po Inư Nưgar (thần Mẹ xứ sở), Po Yang Inư Nưgar Taha (thần Mẹ lớn xứ sở), Muk Juk (Bà Đen), Pataw Kamei (Vua của đàn bà), Bahagavati Vari (Nữ thần Mẹ lớn Linga – Shiva). Khi Bà La Môn giáo xuất hiện ở Champa, người Chăm Bà La Môn giáo đã đồng nhất Po Inư Nưgar với Nữ thần Uma – vợ thần Shiva trong Bà La Môn giáo của người Ấn Độ. Về sau, dưới cách nhìn của người Chăm Bàni lại cho rằng Bà là con gái của Âu Loa Hú (thượng đế).

Tháp thờ Po Inư Nưgar của người Chăm

Trong quá trình tiếp xúc, giao lưu với văn hóa Ấn Độ thì đã có sự hòa nhập giữa vị thần Bhavapara (Uma – vợ của  thần Shiva) của Ấn Độ giáo với nữ thần bản địa Po Inư Nưgar của người Chăm và sau này còn được Hồi giáo Bàni hóa nữa. Kết quả của quá trình tiếp biến văn hóa đó, Po Inư Nưgar được các triều đại vua Champa ở vùng Kauthara (Nha Trang) tôn thờ ở vị trí tối cao.

Như vậy, có thể nói việc tôn thờ vị thần Mẹ xứ sở ở vị trí tối thượng của người Chăm là nét độc đáo trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Chăm. Để hình thành nên tục thờ Mẫu của mình, người Chăm đã phải trải qua quá trình giao lưu tiếp biến văn hóa hết sức sâu sắc. Từ nguồn gốc thờ cúng nữ thần mang tính bản địa đến những thế kỷ đầu Công nguyên đã diễn ra quá trình hỗn dung văn hóa Ấn mà trong đó tục thờ thần Shiva và nữ thần Uma – Bahavapara. Đây được xem là thời kỳ bắt đầu phục hồi yếu tố Mẹ của tín ngưỡng dân gian.  Đến thế kỷ 10, một bộ phận văn hóa Chăm đã tiếp nhận văn hóa Islam từ các quốc gia hải đảo nên cũng diễn ra quá trình Islam hóa Mẫu thần Po Inư Nưgar trên phương diện tôn giáo.

  Po Inư Nưgar hiện diện trong tâm thức người Chăm như một vị thần tối thượng sinh ra mọi thứ từ vũ trụ đến đất đai, cây cối, lúa gạo và cả con người. Bà lại là nữ thần Mẹ của xứ sở che chở con người Chăm và giúp họ tồn tại với chức năng là nữ thần nông nghiệp bởi đó là ngành kinh tế chính của họ từ trước đến nay. Do vậy đối với người Chăm, Po Inư Nưgar là vị thần tối thượng toàn năng, là đấng sáng tạo, là đấng bảo vệ, là đấng hủy diệt những điều xấu, điều ác. Chính vì thế mà trong hầu hết các nghi lễ, Nữ thần Po Inư Nưgar luôn được người Chăm cầu xin ban phước và bảo vệ. Trong suốt chiều dài lịch sử, người Chăm vẫn luôn tôn thờ một Bà Mẹ xứ sở của từng thôn làng họ.

Thực hiện nghi lễ cúng đón nhận y trang nữ thần Pô Inư Nưgar

Từ sau thế kỷ 10, quá trình Nam tiến của người Việt đến những vùng đất mới dẫn đến sự Việt hóa hình tượng Mẫu thần Po Inư Nưgar ở Trung Bộ, kết quả đã cho ra đời hình tượng Thánh Mẫu Việt – Chăm Thiên Y Ana.

Đối với văn hóa của dân tộc Việt Nam vốn có nguồn gốc nông nghiệp, vai trò của người phụ nữ rất được đề cao trong đời sống cộng đồng, nó không chỉ biểu hiện qua ý thức mà còn cả trong tình cảm lẫn cuộc sống tâm linh của mỗi người. Đối với người Chăm, vai trò của Nữ thần Po Inư Nưgar đặc biệt quan trọng, Bà  dạy người Chăm biết cách trồng lúa, dệt vải, là vị thần đầy quyền năng sáng tạo. Bà đã nâng đỡ người Chăm đi những bước đầu trong tiến trình lập quốc của mình. Hình ảnh Po Inư Nưgar là Bà Mẹ nhiệm màu đã xóa đi mọi ngăn cách tôn giáo, vậy nên dù là tín đồ của bất kỳ tôn giáo nào thì Bà cũng có một vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của họ. Bà được tôn thờ một cách độc lập và trở thành một biểu tượng thiêng liêng.

Mặt khác, tín ngưỡng thờ Mẫu có rất nhiều nét gần gũi với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, một tín ngưỡng có vai trò quan trọng hàng đầu trong hệ thống tín ngưỡng dân gian Việt Nam nói chung và người Chăm nói riêng. Ngay cả tín đồ đạo Hindu cũng cảm nhận được tín ngưỡng thờ Mẫu có rất nhiều nét gần gũi với họ, đó là đức tin vào người mẹ. Thực tế trên lịch sử cho thấy giữa Ấn Độ giáo và Champa đã có sự giao thoa ảnh hưởng lẫn nhau thể hiện qua hình ảnh nữ thần Uma (vợ thần Shiva) mà người Chăm đã tiếp nhận dưới hình tượng Po Inư Nưgar.

Tựu trung lại, có rất nhiều tộc người có tục thờ Mẫu, mỗi tộc người có một bà Mẫu khởi nguyên và họ xem đó là tổ tiên của mình như Mẫu Âu Cơ của người Việt và Po Inư Nưgar của người Chăm. Việc thờ cúng này là dấu vết sớm của tục thờ cúng tổ tiên của mỗi gia đình hiện nay. Lịch sử xã hội phát triển, các giai cấp và hình thái xã hội ra đời, ngoài những vị Mẫu được xem là nguồn khởi nguyên giống nòi thì riêng từng nhóm người lại tôn thờ một vị Mẫu thần cụ thể, gần gũi và cần thiết cho cuộc sống tâm linh của họ.

Ban Nghiên cứu Văn hóa

 

 

Tags:

Bài viết khác

Nhạc cụ truyền thống trong hát Chầu Văn

Hát Chầu văn hay còn được gọi là hát văn hay hát hầu đồng là một loại hình nghệ thuật ca hát cổ truyền và một phần tín ngưỡng thờ Mẫu của văn hóa Việt Nam. Đây là hình thức lễ nhạc gắn liền với nghi thức hầu đồng của tín ngưỡng Tứ phủ (tín ngưỡng thờ Mẫu) và tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần (Trần Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuần), một tín ngưỡng dân gian Việt Nam.

Nét văn hóa tâm linh trong kiến trúc nhà thờ họ

Kiến trúc nhà thờ họ là biểu tượng vật chất đậm nét văn hóa phi vật thể của các tộc họ ở Việt Nam. Đây là nơi lưu giữ giá trị, tổ chức, quan hệ, và thành tựu của mỗi dòng tộc qua nhiều thế hệ. Theo truyền thống, nhà thờ họ thường được xây dựng theo cấu trúc đơn giản nhưng hài hòa, mang đậm nét riêng của văn hóa dân gian.

Vai trò và ý nghĩa của nhà thờ họ tại Việt Nam

Nhà thờ tổ hay từ đường là một ngôi nhà dành riêng cho việc thờ cúng tổ tiên của một dòng họ hay từng chi họ tính theo phụ hệ (dòng của cha). Nhà thờ họ phổ biến trong văn hóa người Việt tại khu đồng bằng và trung du Bắc Bộ và Trung Bộ.

Tứ quý trong tranh dân gian Đông Hồ

Tranh Tứ quý thuộc loại tứ bình (bốn bức) khổ lớn, vẽ cảnh tứ thời: Xuân, hạ, thu, đông. Mỗi mùa có một loài cây, loài hoa đặc trưng. Mùa xuân: hoa mai, hoa lan, hoa đào. Mùa hạ: hoa sen, hoa hồng, hoa lựu. Mùa thu: hoa cúc, hoa phù dung. Mùa đông: cây trúc, cây thông (tùng).

Cỗ và mâm cỗ truyền thống của người Việt

Mâm cỗ ở mỗi vùng quê Việt Nam có hương vị riêng nhưng bao giờ cũng vậy, mỗi mâm có 4 hoặc 6 người. Thông thường người ta kiêng ngồi 5 người, ở mâm cỗ có ít nhất hai người thân nhau, cũng có khi 3 cặp đều thân nhau thành một cỗ. Người nhà chủ tế nhị mời những người ăn ý với nhau vào một cỗ, sàn sàn lứa tuổi với nhau vào cùng mâm. Những người có tửu lượng mạnh hoặc nhẹ vào một cỗ, những người bằng vai phải lứa với nhau vào một cỗ. Đàn ông vào cỗ với nhau, còn đàn bà ngồi với đàn bà.

Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ Việt Nam

Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều mang trong mình những nét văn hóa riêng. Văn hóa là cái gốc cho sự phát triển, phồn thịnh của một đất nước. Việt Nam là một dân tộc mang một nền văn hóa đậm đà bản sắc, đa dạng và phong phú. Tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam từ lâu đã đóng vai trò quan trọng đối với người dân Việt, văn hóa tín ngưỡng có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống xã hội và tâm thức người dân.

Tín ngưỡng dân gian trong lễ hội cổ truyền ở Việt Nam

Tín ngưỡng dân gian đóng vai trò quan trọng trong các lễ hội cổ truyền của Việt Nam, thể hiện bản sắc văn hóa, tâm linh và lòng tôn kính đối với các thế lực siêu nhiên, Tổ tiên, thần thánh. Bài viết tìm hiểu một số đặc điểm nổi bật về tín ngưỡng dân gian trong các lễ hội cổ truyền của người Việt, đặc biệt, lễ hội liên quan đến tín ngưỡng dân gian như: tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng vạn vật hữu linh, tín ngưỡng thờ Thành hoàng, tín ngưỡng thờ Tổ tiên, tín ngưỡng thờ Mẫu...

Ý nghĩa và mục đích của tục “Bán khoán con lên chùa”

Bán khoán con cho chùa là một tín ngưỡng dân gian, một hình thức gửi gắm về mặt tâm linh. Có hai hình thức bán khoán con lên chùa: Bán khoán đến hết năm 12 tuổi rồi “chuộc” con ra, hoặc là bán khoán trọn đời. Từ xưa đến nay, nhiều gia đình quan niệm, khi sinh con ra, đứa trẻ hay đau yếu, khóc lóc không phải là do bị bệnh từ thân hoặc những đứa trẻ sinh vào giờ kỵ, ngày phạm (tức ngày mùng 1, 5, 8, 15, 23, 24, 28 và ngày 30 Âm lịch).
Top