banner 728x90

Làng nghề bánh tráng Trảng Bàng – Di sản văn hóa của người dân Nam Bộ

24/06/2025 Lượt xem: 2358

Nhắc đến Tây Ninh, người ta thường nghĩ ngay đến món bánh canh Trảng Bàng trứ danh. Thế nhưng, mảnh đất nắng gió này còn ẩn chứa một di sản văn hóa lâu đời: làng nghề bánh tráng phơi sương Trảng Bàng – nơi kết tinh tinh hoa ẩm thực và tâm hồn người dân Nam Bộ.

Làng nghề bánh tráng Trảng Bàng đã có tuổi đời hàng trăm năm. Ảnh: Zing

Làng nghề nằm tại khu phố Lộc Du, thị trấn Trảng Bàng, cách trung tâm thành phố Tây Ninh khoảng 40km. Nghề làm bánh tráng nơi đây được hình thành từ thế kỷ XVIII, do cư dân vùng Ngũ Quảng – Bình Định mang theo trong hành trình vào Nam lập ấp. Ban đầu chỉ là bánh tráng nướng, bánh tráng nhúng, sau này người dân sáng tạo ra loại bánh tráng phơi sương – đặc sản độc đáo mang hương vị của vùng đất “ban ngày nắng, ban đêm nhiều sương”.

Nhiều giai thoại lưu truyền rằng loại bánh này ra đời từ sự tình cờ khi bánh tráng bị ướt sương đêm. Tuy nhiên, chính nhờ điều kiện khí hậu và sự khéo léo của người thợ mà món bánh dẻo mềm, đậm đà này trở thành biểu tượng văn hóa địa phương.

Nguyên liệu chính để làm bánh tráng phơi sương Tây Ninh là gạo tẻ được xay mới mỗi ngày, hạt gạo bóng, dẻo tự nhiên (Nguồn: Internet)

Nguyên liệu làm bánh là gạo lài thơm làng Miên (Sóc Trăng) – loại gạo vụ mới, không pha trộn, có mùi thơm tự nhiên. Gạo được vo sạch, ngâm kỹ, thay nước liên tục trong hai ngày rồi xay nhuyễn. Khi pha bột, thợ làm bánh cho thêm một ít muối để tăng độ đậm đà.

Bánh được tráng trên mặt vải căng trên nồi nước sôi, người thợ phải khéo léo dàn bột thật mỏng và đều, tránh để bánh bị rách. (Nguồn: Internet)

Khác với bánh tráng thông thường, bánh phơi sương được tráng hai lớp bột, tạo độ dày vừa đủ, dẻo dai mà không giòn gãy. Sau khi tráng, bánh được phơi nắng nhẹ từ 30 phút đến 1 tiếng, sau đó đem nướng bằng than vỏ đậu phộng để bánh chín đều và không bị khét. Cuối cùng là công đoạn phơi sương – linh hồn của món bánh, diễn ra từ 10 giờ đêm đến khoảng 4-5 giờ sáng. Quá trình này đòi hỏi người thợ phải thức khuya, dậy sớm, canh thời điểm bánh đạt độ mềm dẻo lý tưởng rồi nhanh tay thu gom, đóng gói kín để giữ nguyên chất lượng.

Khi hoàn tất, bánh có màu trắng ngà, dẻo mềm, thơm nhẹ mùi gạo mới và thoảng hương tre nứa từ vỉ phơi. Bánh không cần nhúng nước hay nướng lại, có thể ăn ngay hoặc dùng để cuốn thịt luộc, rau sống – món ăn đặc sản Tây Ninh được thực khách khắp nơi ưa chuộng.

Bánh tráng có màu trắng đục từ gạo, thường có hình tròn, mỏng đều, thơm dẻo vị gạo mới (Nguồn: Internet)

Trước đây, mỗi nhà ở Trảng Bàng đều có vài lò bánh tráng. Nay, vì thu nhập bấp bênh và quy trình thủ công tốn nhiều công sức, chỉ còn vài chục hộ còn theo nghề. Dù vậy, những người thợ lành nghề vẫn âm thầm gìn giữ lửa nghề, xem mỗi chiếc bánh là kết tinh của tâm huyết, là một phần ký ức và bản sắc quê hương.

Làng nghề bánh tráng phơi sương Trảng Bàng không chỉ đơn thuần là nơi sản xuất bánh, mà còn là nơi lưu giữ ký ức văn hóa, thể hiện sự kiên cường, sáng tạo và bền bỉ của người dân Nam Bộ. Trong nhịp sống hiện đại, làng nghề vẫn đang tồn tại – lặng lẽ mà bền bỉ – như một minh chứng sống động cho giá trị truyền thống đáng tự hào của đất Tây Ninh.

Phụng Nguyễn

Tags:

Bài viết khác

Người mở cõi – Vị khai quốc công thần đất Đồng Nai

Cách đây 327 năm, vào mùa xuân năm 1698, theo lệnh Chúa Nguyễn Phúc Chu, Chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh dẫn binh thuyền xuôi dòng sông Sài Gòn rồi ngược dòng Đồng Nai, đặt chân đến vùng Cù Lao Phố. Với tầm nhìn chiến lược và phẩm chất của một nhà kiến thiết, ông đã nhanh chóng thiết lập dinh Trấn Biên, ổn định trật tự, khai sinh hệ thống hành chính cho vùng đất hoang hóa rộng lớn, mở đầu cho quá trình xác lập chủ quyền của Đàng Trong trên phần đất Nam Bộ ngày nay.

Lăng Văn Sơn: Nét chạm của di sản trong đô thị hiện đại

Giữa nhịp phát triển sôi động của vùng Tây Hà Nội, Lăng Văn Sơn – di tích lịch sử quốc gia tại xã Tân Hội, huyện Đan Phượng – vẫn là biểu tượng văn hóa, điểm tựa tâm linh và niềm tự hào của người dân địa phương. Nơi đây không chỉ gắn với vị tướng Văn Dĩ Thành – người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống quân Minh vào đầu thế kỷ XV – mà còn lưu giữ những giá trị trường tồn của vùng đất Tổng Gối anh hùng.

Hình tượng Dê trong văn hóa thế giới và nghệ thuật truyền thống Việt Nam.

Hình tượng con dê là một biểu tượng phổ biến trong nhiều nền văn hóa trên thế giới, với ý nghĩa đa dạng từ tôn giáo, triết lý đến nghệ thuật và tín ngưỡng dân gian. Tại Việt Nam, con dê không chỉ là động vật quen thuộc trong đời sống nông nghiệp mà còn giữ vị trí biểu tượng trong nghệ thuật tạo hình và kiến trúc truyền thống.

Bảo tàng – Thư viện Bà Rịa - Vũng Tàu: Hành trình đưa di sản văn hoá đến gần hơn với du khách

Không chỉ lưu giữ ký ức, di sản văn hóa còn là nhịp cầu kết nối giữa quá khứ và hiện tại, giữa người dân và quê hương, giữa du khách và những câu chuyện lịch sử tưởng như đã lùi xa. Ở thành phố du lịch biển Vũng Tàu – hành trình ấy đang được tiếp nối sáng tạo và nhân văn qua nỗ lực không ngừng của Bảo tàng – Thư viện tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Ý nghĩa biểu tượng của tượng Phật Bà Quan Âm nghìn tay nghìn mắt - Di sản vô giá của dân tộc

Sự sùng bái Bồ tát Quan Âm có liên quan mật thiết đến sự phát triển của Tịnh độ tông và Mật tông, cụ thể là tư tưởng “Tịnh Mật hợp nhất”. Chính tại thời điểm giao thoa của hai tông này mà sức sáng tạo các hình tượng Bồ tát Quan Âm ngày càng trở nên phong phú, đa dạng.

Áo Nhật Bình: Một di sản văn hóa quý của Cố đô Huế

Áo Nhật bình vốn là loại triều phục dành cho bậc hậu, phi, cung tần và công chúa thời Nguyễn, nay đã trở thành loại trang phục phổ biến của phụ nữ Huế trong dịp hôn lễ và ngày càng được các bạn nữ trẻ Việt Nam yêu thích sử dụng khi đi ngoạn cảnh, check in…

Di tích Lịch sử - Văn hóa là gì? Tiêu chí, phân loại di tích lịch sử văn hóa

Di tích Lịch sử - Văn hóa là công trình xây dựng, địa điểm, hiện vật, di vật, đồ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm có liên quan đến những sự kiện lịch sử, quá trình phát triển văn hoá, xã hội một dân tộc, một đất nước. Di tích lịch sử - văn hoá phải có một trong các tiêu chí sau:

Những nhạc cụ “thổi hồn” cho Di sản Văn hóa hát Then

Hát Then trong đời sống, văn hoá tín ngưỡng, tâm linh của đồng bào Tày, Nùng, Thái vùng cao phía Bắc được ví là "điệu hát thần tiên", điệu hát của “Trời”. Nghệ thuật diễn xướng dân gian này ẩn chứa và phô diễn những giá trị lịch sử, văn hóa lâu đời. Trong hát Then, đàn Tính và chùm Xóc Nhạc là hai loại nhạc cụ không thể thiếu. Hai loại nhạc cụ này vừa có chức năng giữ nhịp, đệm cho hát, vừa có khả năng diễn tấu linh hoạt, đặc biệt còn được sử dụng như đạo cụ trong những điệu múa Then.
Top