banner 728x90

Hoa Trượng Hội, nét đẹp trong lễ hội Phủ Dầy

29/05/2024 Lượt xem: 2603

Hoa Trượng Hội hay còn gọi là Hội Kéo chữ là nét đẹp văn hóa không thể thiếu trong lễ hội Phủ Dầy.

Trong cuốn “Dấu ấn lịch sử hơn 530 năm của họ Nguyễn Cựu Hào tại tỉnh Nam Định” của ​Tác giả Bùi Văn Tam sinh ra tại Vụ Bản Nam Định có viết:

   “Chuyện rơi chén ngọc dấu son giáng

     Sắp bày hoa trượng , chữ vàng tươi”

Trong bia “Khải định lục niên Xuân” cụ Nghè Tính là người đầu tiên đưa Hội hoa trượng khắc vào bia đá , khẳng định Hội hoa trượng có tính lịch sử và ý nghĩa tư tưởng rất tốt đẹp. Với đoạn văn 53 chữ cụ Nghè Tính đã khái quát lịch sử của Hội Hoa Trượng , một nét đẹp văn hoă của lễ hội Phủ Dầy.

Cụ Nghè Tính cho biết Hội Hoa Trượng có từ đời Trịnh Thái Phi: Trần Thị Ngọc Đài. Vốn là năm 1630-1632 nước ta bị lũ lụt lớn, đê vỡ nhiều đoạn, vùng đồng bằng Bắc Bộ bị ngập lụt, dân tình đói khổ. Đê Hà Thành bảo vệ kinh thành Thăng Long cũng bị phá vỡ nhiều đoạn, chúa Trịnh Tráng phải triệu phu các trấn về đắp đê, trong đó có dân phu Vụ Bản , quê hương của vợ chúa tức bà Vương Phi Trần Thị Ngọc Đài. Dân phu đến kêu cầu với Vương Phi Ngọc Đài , Vương Phi bày kế lên tâu xin với chúa Trịnh Tráng, nên dân phu Vụ Bản được chúa cho về để lo việc chống lụt ở nhà.

Theo lời dặn của Vương Phi, khi dân phu về đến nhà nên tập chung tại Phủ Dầy (An Thái từ) vì có sự giúp đỡ của Mẫu Liễu Hạnh, bà Ngọc Đài mới có địa vị Vương Phi để cầu xin chúa Trịnh. Dân phu kéo về đền An Thái từ, vác mai, cuốc sắp thành chữ “Thánh cung vạn tuế“ để lễ tạ Thánh Mẫu. Sau này cứ đến ngày kỵ của Mẫu lại diễn lại việc xếp chữ bằng mai , cuốc này. Năm Dương Hoà 1642, Phủ Dầy An Thái được nhà nước cho xây dựng và lợp ngói, Vương Phi Ngọc Đài về dự lễ khánh thành, đổi hội mai, cuốc thành gậy hoa để sắp chữ, từ đó Hội Hoa Trượng được hình thành, nguyên lệ cho đến ngày nay.

Làng Vân Cát mới mở rộng ra cánh cát phía Tây Bắc xã An Thái, từ đầu thế kỉ thứ XVII năm Cảnh Trị cuối thế kỉ XVIII mới lập miếu thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh (theo bia của cụ Cao Xuân Dục để ở phủ Vân Cát) nhưng rất đơn giản.

Đến đời Cảnh Thịnh thời Tây Sơn (1793-1801). Hội Nguyên Trần Gia Du mới xây được Phủ Vân Cát, cung đệ nhất ba gian. Có lẽ từ đây Vân Cát mới có Hội Hoa Trượng , nhưng đến đầu đời Tự Đức vì dân ít, của ít nên không làm được, phải giao lại theo nguyên lệ cho phủ An Thái tức Phủ Dầy Tiên Hương ngày nay.

Bia ghi rõ sự việc này và nói rõ sau hơn 60 năm , đến năm Khải Định thứ sáu (1921) Vân Cát mới xin mở lại Hội Hoa Trượng.

Như vậy, cụ Nghè Tính là người đầu tiên ghi bia về lịch sử phát triển Hội Hoa Trượng với nguyên lệ xuất phát từ An Thái từ , nay là Phủ Dày Tiên Hương , nói lên công đức của Thái Phi Trần Thị Ngọc Đài.

Trong bài “ Luận Thánh Mẫu” ông Nghè Tính cũng từng viết : “ Cường quyền hạ thủ phi vi quý

Bần nhược tu tri quảng dĩ nhân “

Bùi Văn Tam

 

Tags:

Bài viết khác

Những loại hoa, quả nên thắp ngày Tết Đoan Ngọ

Chọn đúng hoa, chọn kỹ quả vào ngày Tết Đoan Ngọ không chỉ để dâng lên tổ tiên mà còn thể hiện sự hiểu biết, giữ gìn nếp nhà và bản sắc truyền thống giữa nhịp sống hiện đại.

Đền thờ Mẫu - Chốn linh thiêng ở kỳ quan Đèo Ngang

Nằm trên hành trình thiên lý Bắc – Nam, Đền thờ Mẫu Liễu Hạnh đã trở thành điểm đến tâm linh đầy huyền bí. Qua bao cuộc biến thiên, tích xưa “Công chúa Quỳnh Hoa giáng trần giúp dân bản tránh khỏi nạn dịch, xua đuổi thú dữ, dạy người trồng lúa…” vẫn trường tồn ở vùng đất sơn thủy hữu tình này.

Cúng, khấn, vái và lạy trong nghi lễ thờ cúng

Khi cúng thì chủ gia đình phải bầy đồ lễ cùng với hoa quả theo nguyên tắc “đông bình tây quả,” rượu, và nước. Sau đó, phải đốt đèn (đèn dầu, đèn cầy, hay đèn điện), thắp nhang, đánh chuông, khấn, và cúng trước rồi những người trong gia đình theo thứ tự trên dưới cúng sau. Nhang (hương) đèn để mời và chuông để thỉnh tổ tiên. Khi cúng thì phải chắp tay đưa lên ngang trán khấn. Khấn là lời trình với tổ tiên về ngày cúng liên quan đến tên người quá cố

Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương: Bản sắc văn hóa của người Việt Nam

Việc thờ cúng Hùng Vương đã ăn sâu, lan tỏa rộng khắp, nơi đâu có người Việt sinh sống thì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên - thờ các vua Hùng được người Việt tôn vinh và thờ tự.

Nhạc cụ truyền thống trong hát Chầu Văn

Hát Chầu văn hay còn được gọi là hát văn hay hát hầu đồng là một loại hình nghệ thuật ca hát cổ truyền và một phần tín ngưỡng thờ Mẫu của văn hóa Việt Nam. Đây là hình thức lễ nhạc gắn liền với nghi thức hầu đồng của tín ngưỡng Tứ phủ (tín ngưỡng thờ Mẫu) và tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần (Trần Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuần), một tín ngưỡng dân gian Việt Nam.

Nét văn hóa tâm linh trong kiến trúc nhà thờ họ

Kiến trúc nhà thờ họ là biểu tượng vật chất đậm nét văn hóa phi vật thể của các tộc họ ở Việt Nam. Đây là nơi lưu giữ giá trị, tổ chức, quan hệ, và thành tựu của mỗi dòng tộc qua nhiều thế hệ. Theo truyền thống, nhà thờ họ thường được xây dựng theo cấu trúc đơn giản nhưng hài hòa, mang đậm nét riêng của văn hóa dân gian.

Vai trò và ý nghĩa của nhà thờ họ tại Việt Nam

Nhà thờ tổ hay từ đường là một ngôi nhà dành riêng cho việc thờ cúng tổ tiên của một dòng họ hay từng chi họ tính theo phụ hệ (dòng của cha). Nhà thờ họ phổ biến trong văn hóa người Việt tại khu đồng bằng và trung du Bắc Bộ và Trung Bộ.

Tứ quý trong tranh dân gian Đông Hồ

Tranh Tứ quý thuộc loại tứ bình (bốn bức) khổ lớn, vẽ cảnh tứ thời: Xuân, hạ, thu, đông. Mỗi mùa có một loài cây, loài hoa đặc trưng. Mùa xuân: hoa mai, hoa lan, hoa đào. Mùa hạ: hoa sen, hoa hồng, hoa lựu. Mùa thu: hoa cúc, hoa phù dung. Mùa đông: cây trúc, cây thông (tùng).
Top