banner 728x90

Đôi đũa trong văn hóa người Tày

01/12/2024 Lượt xem: 2548

Từ bao đời nay, đôi đũa đã trở thành vật dụng rất quen thuộc trong bữa ăn hằng ngày, hơn nữa còn thể hiện bản sắc văn hóa trong đời sống và tập quán của người Tày.

Trước đây, đũa của người Tày chủ yếu vót bằng tre hoặc cây vầu già. Những cây được dùng làm đũa không cần quá to, nhưng lóng thẳng, không cong, vênh, thớ nhẵn, thịt đầy, ruột đặc. Mỗi cây chỉ lấy những lóng dưới gốc và có thể vót được vài chục đôi đũa. Ngày nay, trong các bữa ăn của một số gia đình người Tày, đôi đũa tre được thay thế bằng những đôi đũa được làm từ các vật liệu khác nhau như inox, nhựa, gỗ..., nhưng đa số đũa được làm bằng tre vẫn được người Tày ưa chuộng và sử dụng nhiều nhất. 

Trong quá trình nấu cơm, để cho cơm chín thơm ngon, không bị khê, cháy hay chín không đều phải có một đôi đũa to để xới khi cơm dần cạn nước. Đôi đũa đó được gọi là “đũa cả”. Đũa cả được làm bằng thanh tre già, có độ dày và khá dài, một đầu to hơi dẹp, một đầu tròn để dễ cầm giúp xới cơm tơi mà không bị cong hoặc gãy. Đũa cả còn dùng để lấy cơm vào bát cho người ăn thay vì phải dùng muỗng. 

Trong cung cách ẩm thực khi ngồi ăn, sử dụng đôi đũa là một “ẩn ngữ vô ngôn” nhưng lại sâu đậm hơn ngôn ngữ vì cách sử dụng đôi đũa diễn tả cung cách ẩm thực (tức văn hóa của người Tày). Trong bữa cơm thường ngày của gia đình người Tày, khi xới cơm xong phải được đậy vung để giữ cơm nóng. Khi ăn, không ai được gõ đũa hay gõ đũa cả vì một số điều kiêng kỵ, đồng thời, trong bữa ăn người Tày có những “quy ước ngầm” về văn hóa dùng đũa như: khi ngồi vào mâm cơm gia đình, người nhỏ tuổi sẽ so đũa và so trước tiên cho người lớn nhất nhà hoặc khách quý. Người vai vế lớn nhất cầm đũa trước nhất và gắp ăn đầu tiên, con cháu gắp theo những món nào người lớn đã gắp, có nghĩa con cháu không được gắp trước ông bà một món ăn; đôi đũa gắp thức ăn từ đĩa để vào bát rồi mới ăn, trong bát vẫn còn đồ ăn không nên gắp thêm vào; không dùng đũa bới tìm miếng ngon, chọc đũa vào bát canh, vừa cầm đôi đũa vừa chan canh hay chỉ trỏ; một bát thức ăn không được gắp hai người cùng một lúc, khi gắp chú ý không để đũa chạm nhau. 

Đôi đũa thể hiện bản sắc văn hóa trong đời sống và tập quán của người Tày.

Những hôm nhà có khách, chủ nhà mời khách bằng chén rượu khai vị và gắp thức ăn cho khách, trong bữa các con cháu chú ý gắp thức ăn và mời khách. Trong khi ăn mà gặp trường hợp hắt hơi, ho… phải quay mặt ra ngoài hay xin phép ra khỏi mâm; khi ăn xong trước khi đứng lên phải có lời xin phép mọi người; khi cả nhà đã ăn xong thì con út hay người ít tuổi phải mời nước, tăm cho khách và đưa bằng hai tay...

Bên cạnh đó, đôi đũa còn là một biểu tượng cho văn hóa tâm linh. Ngày giỗ, ngày tết hay những dịp làm lễ giải hạn... đều có sự hiện diện của đôi đũa, bát cơm đặt ngay ngắn, gọn gàng cạnh mâm cơm cúng chính là để mời ông bà gia tiên về đoàn viên, cùng chứng giám niềm vui, nỗi buồn với con cháu. Trong đám tang của người Tày đều có thủ tục “dâng cơm sớm, chiều” vào những bữa trưa, bữa chiều, gia đình có một mâm cơm để cúng. Trên mâm gồm thịt gà hoặc thịt lợn, bát cơm, đôi đũa, chè, rượu…, đặt ở phía chân quan tài, thắp hương mời linh hồn về thượng hưởng, được thực hiện dưới sự chủ trì của thầy Tào. Mỗi lần dâng lễ, thầy Tào đọc bài ca kể công lao của người quá cố. Những chiếc bát cúng, đôi đũa trên mâm chính là nét đẹp văn hóa, gói ghém tập tục, thông điệp sống lấy hiếu làm đầu để truyền lại cho hậu nhân.

Dù chỉ là một vật dụng nhỏ bé nhưng đôi đũa lại chứa đựng trong đó cả văn hóa của một tộc người cùng những triết lý sâu sắc trong bữa cơm gia đình người Tày. Thông qua bữa cơm, đôi đũa đã trở thành một vật dụng để ông bà, cha mẹ có thể dạy con cháu những bài học về nền nếp, lễ nghĩa, là nét văn hóa cần được gìn giữ, lưu truyền trong đời sống sinh hoạt của người Tày.   

Theo Báo Cao Bằng

 

 

Tags:

Bài viết khác

Tết Thanh minh của người Dao

Tết Thanh minh không chỉ là dịp để tưởng nhớ tổ tiên mà còn là một nét văn hóa đặc sắc của nhiều dân tộc thiểu số, trong đó có người Dao Quần Chẹt ở các tỉnh Tuyên Quang, Hòa Bình, Vĩnh Phúc. Đây là dịp để con cháu sum vầy, thể hiện lòng thành kính với bậc tiền nhân, đồng thời lưu giữ những phong tục truyền thống.

Nét văn hóa trong trang phục dân tộc H’mông

Nằm trong một quốc gia đa dân tộc, dân tộc H’mông được coi là một thành viên quan trọng trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Cùng với tiếng nói, chữ viết, trang phục cũng là một trong những chi tiết quan trọng đầu tiên để nhận biết và phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Trang phục truyền thống không chỉ mang đậm bản sắc văn hóa, mà còn chứa đựng những giá trị nghệ thuật, giá trị lịch sử của từng tộc người.

Những tấm dệt đan sắc núi rừng

Giữa sắc thẫm của đại ngàn Trường Sơn, đây đó nổi lên màu trắng của những dải mây vành khăn ở lưng chừng núi, màu đỏ của hoa gạo, hoa chuối, màu xanh của cây cỏ, màu vàng của lá úa rơi rụng, hay màu tím của hoàng hôn, màu của những tia nắng tán sắc cuối chân trời khi chiều muộn… Tất cả đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên mà người Tà Ôi ở không gian sống của chính tộc người mình

Những điều cần biết về tục thờ Linga và Yoni của người Chăm

Tục thờ Linga và Yoni có nguồn gốc từ cộng đồng người sống ở vùng lưu vực sông Ấn, thuộc chủng tộc Sumerian và Dravidan. Tín ngưỡng của họ gắn liền với thần thoại về thần mẹ và sự thờ cúng âm lực, coi sinh thực khí là nguồn gốc của mọi sự sáng tạo.

Các phong tục cần biết khi đến các làng bản của người dân tộc

Đồng bào các dân tộc Bắc Hà nói riêng và Lào Cai nói chung rất hiếu khách, nhưng khi du khách đến thăm làng, bản nên chú ý những điều kiêng kỵ và cần biết một vài phong tục, tập quán sinh hoạt để tiện ứng xử và giao tiếp.

Nhuộm răng đen - Phong tục lâu đời của người Việt

Nhuộm răng đen là một tục lệ lâu đời, xuất hiện từ thời Hùng Vương, tồn tại suốt mấy ngàn năm trong lịch sử văn hóa của người Việt. Đây vốn là phong tục cổ truyền không chỉ của cư dân người Việt mà còn tồn tại ở cộng đồng các dân tộc như Thái, Mường, Dao, Lự, Si La,…Trong cộng đồng người Việt, tục nhuộm răng đen chủ yếu chỉ phổ biến ở khu vực miền Bắc và miền Trung, còn ở miền Nam không thấy dấu vết của phong tục này.

Thala – nét đẹp văn hóa cộng đồng của người Khmer

Trên đường vào các phum, sóc của đồng bào Khmer Nam Bộ, đi khoảng một vài cây số, ta dễ dàng bắt gặp những ngôi nhà từ vài mét đến vài chục mét vuông, nép dưới bóng chùa hay bóng cây. Đó là các điểm dừng, nghỉ cho khách đi đường, do bà con dân tộc Khmer xây dựng. Tiếng Khmer gọi đó là các “Thala” (Schla).

Nghề làm cốm dẹp truyền thống của người Khmer (Sóc Trăng)

Cốm dẹp là một món ăn đặc sản nổi tiếng của vùng Sóc Trăng, không chỉ là biểu tượng văn hóa đặc trưng của địa phương mà còn gắn liền với đời sống văn hóa, tinh thần của đồng bào dân tộc Khmer Nam Bộ. Món ăn này không chỉ được sử dụng trong những bữa ăn hàng ngày mà còn là một phần không thể thiếu trong các dịp lễ quan trọng, đặc biệt là Lễ cúng Trăng - một sự kiện tôn giáo quan trọng của người Khmer.
Top