banner 728x90

Độc đáo nghi thức hát Quan làng trong đám cưới của người Tày

29/07/2024 Lượt xem: 2675

Trong đám cưới truyền thống của người Tày, nhà trai và nhà gái sẽ giao tiếp, đối đáp với nhau bằng những bài hát Quan làng đầy tinh tế, chứa đựng tri thức văn hóa về cách ứng xử trong đời sống.

Hát Quan làng tại một đám cưới của người Tày ở Tuyên Quang. Ảnh: Báo Dân tộc

Cộng đồng Tày, là dân tộc lớn thứ hai sau người Kinh, sinh sống chủ yếu ở vùng miền núi thấp phía Bắc Việt Nam, có tín ngưỡng đa thần, sở hữu một kho tàng di sản văn hóa vật thể và phi vật thể đặc sắc, đặc biệt là âm nhạc.

Di sản âm nhạc truyền thống của người Tày được biết đến nhiều với các làn điệu như hát Then, hát Lượn, hát Sli, hát Ru và hát Quan làng.

Trong số đó, hát Quan làng là điệu hát dành riêng trong các đám cưới của các đôi lứa người Tày. Đó là hệ thống các bài thơ, bài hát dân dã tồn tại trong dân gian từ xa xưa, được diễn xướng theo trình tự thủ tục, nghi lễ nhất định trong một bầu không khí lịch thiệp, tao nhã.

Các bài hát Quan làng là cách chỉ bảo, lối ứng xử tinh tế của con người trong đời sống, hướng con người tới cái chân-thiện-mỹ.

Theo tục lệ của người Tày, trong dịp đám cưới, hai bên nhà trai và nhà gái tổ chức hai đoàn người đại diện cho hai họ. Trong số họ sẽ có những người hát Quan làng (tiếng Tày gọi là Pú Quan làng), am hiểu phong tục, có kỹ năng giao tiếp, giỏi thơ ca, đặc biệt là tài hát đối đáp.

Hai đoàn này thay mặt cho hai bên nhà trai và nhà gái trong nghi thức đám cưới, và tục hát Quan làng sẽ diễn ra sôi nổi, liên tục trong suốt quá trình. 

Những người hát Quan làng bên nhà trai chủ yếu là đàn ông, đứng tuổi, khéo giao tiếp và hát hay. Họ mang trầu cau đến nhà gái thực hiện các nghi thức dạm hỏi, xin lộc mệnh, chuẩn bị đồ sính lễ và đón dâu về.

Đại diện bên nhà gái là Pả mẻ (dẫn đoàn đưa dâu về nhà chồng), có thể là đàn ông hoặc là người phụ nữ đứng tuổi, cũng là người khéo ăn, khéo nói. Họ sẽ là những người sẽ đưa dâu về bên nhà trai.

Nghi thức hát Quan làng thường được chia làm 3 cung đoạn gồm Đón (nhà trai đến xin dâu), Nộp (nhà gái nộp dâu), Đưa (nhà trai đưa dâu về). Mỗi bài hát đều mang ý tứ, cách ứng xử của cả hai bên gia đình trai gái.

Theo phong tục, nhà gái sẽ đưa ra các thử thách khi nhà trai đến làm thủ tục hỏi cưới. Các Pú Quan làng sẽ phải dùng lời hát của mình giao tiếp, đối đáp để nhà gái gỡ bỏ tất cả những thử thách, chướng ngại vật từ cổng vào, rồi lên cầu thang, hát khi vào nhà, hát để người trải chiếu, mời nước, mời trầu, xin dâu.

Nhà gái cũng sẽ hát đối đáp lại trong các cung đoạn để tạo không khí vui vẻ. Sau đó, khi đưa dâu về nhà trai, các Pú Quan làng nhà gái sẽ hát bài Slắng lùa (dặn dâu), trước khi chia tay.

Hát Quan làng có hàng trăm bài ca, có thể kéo dài tới hàng nghìn câu, được chia thành các phần cụ thể.

Nội dung của các bài hát Quan làng trong nghi thức thể hiện rõ những quan điểm đạo đức, những quy tắc xử thế tốt đẹp trong mối quan hệ gia đình, quan hệ cộng đồng; răn dạy con cháu sống cho phải đạo dâu hiền rể thảo, và chúc phúc cho lứa đôi hạnh phúc, ấm no, sinh con đàn cháu đống.

Khi hát Quan làng, người Tay không sử dụng nhạc cụ hay đạo cụ kèm theo mà chỉ là những lời hát đối đáp mộc mạc, ý nhị của các Pú Quan làng hai bên.

Hát Quan làng vừa mang tính nghi thức, vừa mang tính nghệ thuật giải trí, phản ánh đời sống tinh thần phong phú, cũng như nét đẹp trong văn hóa ứng xử của bà con dân tộc Tày, góp phần làm giàu có thêm kho tàng văn hóa dân gian Việt Nam nói chung. 

Với giá trị nhân văn tốt đẹp đó, nghi lễ hát Quan làng của dân tộc Tày đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di sản Văn hóa Phi vật thể Quốc gia năm 2023./.

(Theo Vietnam+)

 

 

Tags:

Bài viết khác

Cúng Tết Đoan Ngọ và những điều cần lưu ý

Phong tục cúng Tết Đoan Ngọ đã tồn tại từ xa xưa ở Việt Nam, nhưng cúng sao cho đúng, cho đủ lại là điều không phải ai cũng biết.

Lễ tế trâu trên đền tháp Po Klong Garai

Cứ đến chu kỳ 7 năm, tộc họ Cuah lại tổ chức Nghi lễ tế trâu dâng lên thần linh trên đền tháp Po Klong Garai. Đây là dịp để các thành viên trong dòng tộc gặp mặt, cùng nhau tưởng nhớ ông bà, tổ tiên và cũng là cách để bảo tồn các nghi lễ truyền thống của người Chăm, nhất là hát xướng ca của chức sắc ông Kadhar cùng các điệu múa dâng lễ đặc sắc, thu hút người xem.

Đền tháp Po Klong Garai: Biểu tượng vững bền của văn hóa Chăm

Đền tháp Po Klong Garai là một trong những công trình kiến trúc và điêu khắc tiêu biểu và nổi bật của người Chăm được bảo tồn khá nguyên vẹn. Tháp tọa lạc trên đồi Lá trầu (Mbuen Hala), thuộc phường Đô Vinh, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận. Văn khắc bằng chữ Chăm cổ trên đá sa thạch cung cấp những thông tin về văn hóa, lịch sử quý giá như công lao và thần tích của vua Po Klong Garai, các hoạt động tế lễ, cúng bái và tổ chức xã hội của người Chăm

Độc đáo Lễ cưới “ Dứ bà đù” của người Hà Nhì đen (Lào Cai)

Trên mảnh đất biên cương Y Tý, Lào Cai, người Hà Nhì đen vẫn gìn giữ nhiều phong tục truyền thống độc đáo, trong đó lễ cưới “Dứ bà đù” được xem là một nét văn hóa tiêu biểu, phản ánh rõ bản sắc dân tộc và đời sống tinh thần của họ.

Vang danh nghề gốm Lái Thiêu (Bình Dương)

Bình Dương được thiên nhiên ưu đãi có nguồn khoáng sản đất sét và cao lanh rất phù hợp cho nghề làm gốm. Trong những làng gốm ở Bình Dương thì làng gốm Lái Thiêu đã nổi danh trong và ngoài nước bởi sự mộc mạc nhưng không kém phần tinh tế và đậm chất Nam bộ.

Rắn trong tâm thức người Quảng Ngãi

Trong những câu chuyện dân gian của người Quảng Ngãi, hình tượng rắn hiện lên muôn hình, muôn vẻ. Rắn có lúc được người xưa thần thánh hóa và tôn thờ, đi vào đời sống tâm linh; có lúc lại trở thành biểu tượng của cái ác, gieo rắc nỗi sợ hãi cho con người.

Nét đặc trưng của trang phục dân tộc Thái ở Việt Nam

Trang phục không chỉ là y phục hàng ngày mà còn là phần không thể thiếu trong các dịp lễ hội, thể hiện văn hóa và tâm linh của người Thái. Mỗi chi tiết trên trang phục đều mang ý nghĩa riêng và thể hiện sự kính trọng văn hóa truyền thống.

Đám giỗ Miền Tây – Nét đẹp văn hóa của người dân Miền Tây

Đám giỗ miền tây… tràn đầy tình cảm, đó chính là câu nói mà ai cũng sẽ nhắc khi nói về đám giỗ miền quê. Người miền Tây quan niệm rằng đám giỗ không chỉ là dịp để tưởng nhớ người đã khuất mà còn là dịp để bà con, hàng xóm láng giềng quây quần, cùng nhau sẻ chia những câu chuyện trong cuộc sống và thắt chặt thêm tình làng nghĩa xóm.
Top