banner 728x90

Ý nghĩa tiếng chuông chùa

15/04/2025 Lượt xem: 2668

Chuông là một pháp khí quan trọng trong nghi thức Phật giáo. Tiếng chuông vang xa giữa thinh không, thâm trầm giữa náo nhiệt, ngân nga giữa bể dâu thức tỉnh những khách trọ trần gian còn mải theo đuổi danh lợi, gọi thế nhân đang mê đắm nơi bể khổ trở về cõi an nhiên.

Vẳng nghe một tiếng chuông ngân…

Chuông Phật trong tiếng Phạn gọi là Ghantā, thuộc nữ tính. Người hoa dịch là chung, khánh. Sách Ngũ Phần Luật, quyển 18 có ghi: “Thời Phật Đà, có một lần tăng đoàn làm lễ Bố Tát chưa thể kịp thời tập hợp, bèn tới một nơi hoang vắng toạ thiền hành đạo. Khi đó đức Phật bèn bảo rằng phải gõ Ghantā, hoặc gõ trống, thổi ốc để tập hợp.

Một chương khác trong sách này cũng có kể lại: “Các vị Tỳ kheo không biết làm thế nào để dùng gỗ làm Ghantā, vì thế bạch với đức Phật. Đức Phật nói: “trừ cây sơn và các loài cây độc ra, còn các loại cây gõ phát ra tiếng, đều có thể làm được”. Vì thế, những nơi không có kim loại thì họ dùng thân cây rỗng để là thay chuông và sau này người ta làm bé đi thành mõ để giữ nhịp khi tụng Kinh. 

Trong bài Hương Sơn phong cảnh ca, Chu Mạnh Trinh viết: “Thỏ thẻ rừng mai, chim cúng trái/ Lững lờ Khe Yến, cá nghe kinh. Thoảng bên tai một tiếng chày kình/ Khách tang hải giật mình trong giấc mộng”.

Chuông là một nhạc cụ, được đúc bằng kim loại và phát ra âm thanh đơn giản. Hình dáng của nó được làm theo các hình tháp hay hình chén rỗng…Theo Đại Tỳ Kheo Tam Thiên Uy Nghi, quyển Hạ thì có 5 việc cần gõ chuông: Khi hội họp thường kỳ; khi ăn sáng; lúc ăn tối; khi trở về cõi Niết Bàn; mọi chuyện vô thường.


Ảnh minh họa

Mỗi lần đánh chuông, âm thanh của nó không chỉ lan tỏa khắp nơi, lên trời mà còn xuống cả địa phủ, đánh thức tâm linh của những người bị giam cầm trong ngục tối, ma quỉ biết mà hồi tâm chuyển tính mà tu hành niệm Phật.

Chỉ cần chúng niệm câu Nam mô A Di Đà Phật hay danh hiệu của một vị Bồ Tát, một vị Thanh Văn, Duyên Giác, Bích Chi Phật thì lập tức được thoát khỏi xiềng xích mà được đi đầu thai làm người. Kinh Tăng Nhất A Hàm có nói: “Mỗi khi tiếng chuông chùa ngân vang thì những hình phạt trong ác đạo được tạm thời dừng nghỉ, chúng sanh chịu hình phạt được tạm thời an vui”.

Trong cuốn “Pháp khí – Bách trượng thanh quy” nói rằng: “Chuông lớn là hiệu lệnh của rừng già. Tiếng chuông sớm phá tan đêm trường, gọi người người thức giấc. Tiếng chuông chiều muộn giục giã người bôn tẩu dừng bước chân, những chuyện bận lòng thôi ngẫm nghĩ.”

Một ý nghĩa sâu sắc hơn của tiếng Phạn chung trong buổi đầu hôm hay những lúc hừng sáng là sự nhắc nhở cho con người luôn thức tỉnh để tinh tấn tu hành mà vượt ra ngoài vòng tội lỗi, tối tăm khổ đau trong cuộc sống vô thường.

Nếu không tự tỉnh thức bằng trí tuệ, để tìm thấy các giá trị thật của mọi việc đang có mặt chung quanh mình, thì thật là uổng phí, vì mình sẽ mất tất cả theo luật tự nhiên, và nếu như khi đặt hết trọng tâm của đời mình vào Từ, Bi, Hỷ, Xả, để thực hiện việc gì cho mình hay cho người bằng những giá trị thật của việc đó, thì mình sẽ không bao giờ bị mất tất cả.

Trong mỗi tiếng chuông, trống, mõ, của nhà Phật là những sứ giả Như Lai mang đến cho đại chúng những tâm nguyện từ bi, để giúp cho chính họ có thể tự mình giải tỏa những nỗi muộn phiền đau khổ, hay để tắm gội cho thân tâm thanh sạch, những buồn bực, chán nản… bụi trần.

Vì thế trong Kinh có câu: "Nghe tiếng chuông phiền não nhẹ/ Trí huệ lớn, giác đạo sinh/ Dời Địa ngục, khỏi hầm lửa/ Nguyện thành Phật độ chúng sinh."

Tiếng chuông mỗi buổi sớm đánh 108 tiếng, tượng trưng cho một năm. Một năm có 12 tháng, 24 tiết khí, 72 hậu (2), cộng các con số đó lại là 108”. Con số 108 tượng trưng cho sự vận động tuần hoàn không ngừng nghỉ.

Phật giáo giảng rằng con người có 108 chủng phiền não, do đó đánh chuông 108 lần là để tận trừ những phiền não của con người. Thêm vào đó, tràng hạt cũng có 108 viên, niệm kinh hay trì chú cũng niệm 108 lần với ý nghĩa tương tự như trên, một lần niệm là trừ đi một phiền não.

Tiếng chuông trầm ấm ngân vang, khiến người nghe có cảm giác bình yên đến kỳ lạ. Nào danh nào lợi, nào tình ái cuồng si, nào tranh nào đấu… khi đứng ở nơi thanh khiết mà nghe âm thanh tiếng chuông chùa thì những thứ đó nào có ý nghĩa gì đâu. Giữa chốn hồng trần cuồn cuộn, nghe một tiếng chuông chùa, đột nhiên ta muốn sống chậm lại và lòng bắt đầu tự hỏi: “Đời người cuối cùng là để làm gì đây?”. Đúng như câu: "Mộ cổ thần chung, cảnh tỉnh ái hà danh lợi khách/ Kim kinh ngọc kệ, hoán hồi khổ hải mộng mê nhân." 

(Dịch nghĩa: "Chuông sớm trống chiều, thức tỉnh khách trần đang chạy theo danh lợi/ Kinh vàng kệ ngọc, kêu gọi người đời mau thoát khỏi bể khổ mênh mông).

Theo Báo Pháp luật

 

 

Tags:

Bài viết khác

Hiếu là cội nguồn của đạo làm người

Trong lịch sử văn hóa Việt Nam, hiếu không chỉ là một đức tính căn bản mà còn là nền tảng để xây dựng nhân cách, gia đình và xã hội. Vào thế kỷ II, khi Phật giáo du nhập vào Giao Châu, Mâu Tử đã soạn Lý hoặc luận để giải trừ nghi hoặc với giới Nho sĩ và Đạo gia về Phật giáo.

Tình và Trí

Tình cảm và lý trí khó có thể tồn tại đồng thời một cách trọn vẹn, viên mãn. Những người làm đầu ngành kinh tế, lãnh đạo hoặc khoa học bận để tâm trí và thời gian vào chuyên môn cho nên thường phải hy sinh hạnh phúc riêng gia đình.

Kỳ Lân – Linh Vật Thiêng Liêng Trong Phật Giáo

Trong văn hóa Á Đông, kỳ lân là một trong tứ linh Long – Lân – Quy – Phụng, tượng trưng cho điềm lành, trí tuệ và sự thịnh vượng. Riêng trong Phật giáo, kỳ lân được tôn kính không chỉ bởi hình ảnh huyền thoại mà còn bởi ý nghĩa tâm linh sâu sắc, biểu trưng cho lòng từ bi, chính nghĩa và trí huệ.

Công năng của Thần Chú Vãng Sanh

Trong kho tàng tu tập của Phật giáo Tịnh độ, bên cạnh pháp môn niệm Phật “Nam Mô A Di Đà Phật” được xem là cốt lõi, còn có một mật ngôn được trì tụng phổ biến trong các nghi lễ cầu siêu, cầu vãng sanh: đó là Thần Chú Vãng Sanh.

Ý nghĩa sâu xa của thần chú Om Mani Padme Hum

OM MANI PADME HUM - sáu âm thanh ngắn ngủi - chính là tinh hoa của 84.000 pháp môn, là cốt tủy của con đường Phật dạy. Trì tụng thần chú này, tức là gieo hạt giống bi mẫn và trí tuệ trong tâm mình. Hạt giống ấy, khi được tưới tẩm bằng niềm tin, sự tỉnh giác và lòng từ bi, nhất định sẽ nảy nở thành cây giác ngộ, che mát cho chính ta và cho tất cả chúng sinh.

Phật giáo và các giá trị nhân bản

Trước khi Ðức Phật xuất thế, có 2 phương pháp tu tập thịnh hành ở Ấn Độ. 1) Tu sĩ Bà-la-môn tìm kiếm sự cứu rỗi và giải thoát bằng cách áp dụng những cuộc tế lễ đẫm máu, 2) Một số người thay vì tế lễ họ tu theo phương pháp khổ hạnh ép xác với hy vọng có được kết quả trong tương lai. Ðức Phật xem hai cách thực hành trên là không hoàn thiện, không đem lại lợi ích cho người thực hành.

8 đặc tính của hoa sen trong Phật giáo

Nói đến Phật giáo, người ta thường liên tưởng đến một loài hoa bình dị, thanh cao và thoát tục sống trong ao hồ: hoa Sen - một trong tám biểu tượng của Phật giáo. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa lấy hoa Sen làm đề kinh.

Đức Phật và những di huấn sau cùng

Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn. Nhưng Ngài giữ tâm chánh niệm, tỉnh giác, chịu đựng cơn đau ấy, không một chút ta thán.
Top