banner 728x90

Nghi lễ Lang Ndaw của người Chăm

30/09/2024 Lượt xem: 2715

Nghi lễ Lang Ndaw tạm dịch là Lễ tế trâu tôn chức ông Kadhar. Trong các chức sắc người Chăm thực hành nghi lễ trên đền tháp và các nghi lễ của dòng tộc, ông Kadhar đóng vai trò rất quan trọng trong việc hướng dẫn thực hành nghi lễ và hát thánh ca. Từ khi nhập môn, ông Kadhar trải qua các giai đoạn tấn phong rồi mới được phép làm chủ lễ và được mặc tấm chăn có đính hoa văn thổ cẩm. Diễn trình nghi lễ Lang Ndaw có các nghi lễ hiến tế con vật, cúng cơm, hát lễ và múa mừng.

Các chức sắc cùng đồng bào Chăm khấn trình báo với tổ tiên thực hiện nghi lễ Lang Ndaw

Nghi lễ Lang Ndaw của chức sắc Kadhar

Mục đích của nghi lễ Lang Ndaw để đánh dấu một bước trưởng thành của chức sắc Kadhar sau một thời gian đã làm lễ nhập môn. Thực hành nghi lễ Lang Ndaw có ông Kadhar Gru, bà Pajau chứng kiến và hướng dẫn thực hành nghi lễ. Lễ tế trâu diễn vào 2 ngày chính, lễ vật gồm có: một con trâu, một con dê, bánh tét cặp, chuối, trầu cau, rượu trứng, bánh bột hấp, cá khô và trái cây…

Đầu tiên, các chức sắc lập bàn tổ (Rep danaok) khấn trình báo với tổ tiên trong gia đình biết về việc tổ chức lễ tế trâu. Qua đó, cầu xin tổ tiên phù hộ cho công việc được thuận lợi, thành công tốt đẹp. Các lễ vật được cất giữ trên xe trâu, rào kín bằng tấm liếp đan (Kateng), con trâu được dắt ra ngoài đồng để làm lễ tế.

Không gian dâng lễ vật

Đối với người Chăm, việc tế trâu không được tổ chức trong khuôn viên sân nhà của gia đình, mà chỉ được phép làm lễ ở ngoài cánh đồng, xa khu vực dân cư sinh sống. Họ dựng một cái nhà lễ ở phía Tây che kín ba mặt, chỉ mở một cửa ở phía Đông làm không gian hành lễ. Buổi tối, phân công cho một người đàn ông làm nhiệm vụ canh giữ con trâu, không cho trâu được nằm ngủ, các chức sắc Kadhar hát lễ làm con trâu thức đến sáng.

Khi ánh nắng của buổi bình mình hừng sáng lên, con trâu được tắm rửa sạch sẽ, trang điểm và gắn 2 cây nến lớn vào cổ. Chức sắc Kadhar Gru dùng hai ngón tay cái khẩy dây đàn Kanyi đi đầu, ông Kadhar khác bước theo sau lưng vác thanh đao trên vai, đi ngược chiều kim đồng theo hình vòng tròn di chuyển xung quanh con trâu làm vật tế lễ. Sau đó, con trâu bị quật ngã xuống đất, chức sắc làm nghi lễ Lang Ndaw sử dụng một thanh đao sắc bén thực hiện động tác cắt tiết con trâu. Thịt con vật hiến tế được chế biến thành các món ăn để dâng cúng, phần đầu con trâu được đặt trước nhà lễ, 2 bắp đùi trâu treo ở bên trái nhà lễ.

Nghi lễ cúng cơm

Nghi lễ cúng cơm

Cúng cơm là nghi lễ thực hiện đầu tiên, trước khi hát thánh ca, dâng lễ vật và múa mừng. Lễ vật cúng cơm gồm có: 10 mâm cơm, trên mỗi mâm đặt 1 chén cơm vun đầy, 1 đĩa thịt trâu luộc, 2 chén canh lá môn, 2 chén canh chua lá me, 1 đĩa thịt trâu xào, rượu và một ít muối trắng. Các lễ vật đều được lót lá chuối, đặt trên mâm cao chân và gắn 1 cây nến làm bằng sáp ong.

Mở đầu lễ cúng cơm, ông Kadhar làm nghi thức khai ché rượu cần, mở ché rượu ra đổ nước vào, chất rượu cần ra đựng trong hũ gốm nhỏ (Blaoh) để dâng cúng. Bà Pajau ngồi tại vị trí trung tâm, ông Kadhar ngồi ở bàn tổ bên trái, quay mặt về phía Tây đầu nhà lễ khấn nguyện thần linh: Xin mời thần đến ngự trị tại bàn tổ nhận lễ vật và chứng giám nghi lễ Lang ndaw. Xin thần luôn phù hộ độ trì cho gia đình luôn hòa thuận, mọi sự như ý, cầu mong ông Kadhar làm nghi lễ Lang ndaw khỏe mạnh, học tập tiến bộ nhanh để phụng sự thần linh và giúp đỡ dân làng thực hành các nghi lễ của dòng tộc.

Ông Kadhar mở ché rượu cần

Lời khấn cầu được lặp đi lặp lại, lần lượt ông Kadhar, bà Pajau khấn mời tất cả các vị thần linh của người Chăm, những bậc sư tổ Kadhar và tổ tiên trong gia đình đến nhận lễ vật. Qua đó, cầu xin sự bình an, tha thứ những lỗi lầm trong cuộc sống, xóa hết nợ nần làm thần linh nổi giận. Nghi lễ cúng cơm kết thúc bằng lời khấn Halaih thuk siam - Bình an đến với mọi người.

Nghi lễ hát thánh ca và dâng lễ vật

Ông Kadhar sử dụng cây đàn kanyi tạo nhịp điệu hát lễ. Đặc điểm của cây đàn kanyi của người Chăm giống với đàn nhị, nhưng hộp đàn làm bằng mu con rùa có chức năng cộng hưởng âm thanh, cần đàn làm bằng thân cây tre, dây đàn làm bằng sợi chỉ, sợi cước trắng, vỉ đàn làm bằng lông đuôi con ngựa. Ông Kadhar mới được phép sử dụng cây đàn Kanyi để hát thánh ca kể về tiểu sử và công đức các vị thần ở trên đền tháp và các nghi lễ nhập Kut, Thrua, Puis và Payak của dòng tộc.

Ông Kadhar khẩy đàn kanyi di chuyển xung quanh con vật hiến tế

Người Chăm có tín ngưỡng thờ đa thần, mỗi lần hát lễ, ông Kadhar lần lượt hát về tiểu sử của các vị thần. Mỗi bài hát lễ có độ dài, ngắn khác nhau, có khi trầm lắng, có khi hào hùng, cao trào kết hợp với âm thanh du dương của tiếng đàn Kanyi làm say mê người nghe. Hát về vị thần Po Cei Tathun, ông Kadhar cầm khay rượu, trứng khấn mời, giọng hùng ca, nhịp vỉ đàn thánh thót mang đến một không gian âm nhạc linh thiêng. Những người xem lễ vỗ tay theo nhịp đàn kanyi. Hiện tượng lên đồng thường xuất hiện khi dâng lễ đến vị thần Po Cei Tathun, thần phán xét mọi sự việc. Cuối cùng, ông Kadhar lấy quả trứng đập bẻ vỏ mang biểu tượng thần đã nhận lễ vật.

Nghi lễ múa mừng

Ông kadhar đang hát lễ

Ông Kadhar thực hiện nghi lễ Lang Ndaw múa đầu tiên để mừng sự thành công của buổi lễ. Đạo cụ múa của ông Kadhar là một chiếc khăn tay màu đỏ, theo nhịp vỗ của trống baranâng, lời hát và tiếng đàn kanyi. Ông Kadhar múa di chuyển về phía nhà lễ ở phía Tây rồi quay về phía Đông. Kế đến là bà Rija của dòng tộc múa, rồi lần lượt đến cụ ông, cụ bà và các chức sắc tham gia thực hiện nghi lễ múa mừng.

Múa là một đặc trưng nổi bật trong các nghi lễ của người Chăm. Có thể nói rằng, các nghi lễ nào của người Chăm cũng đều có tiết mục múa. Trong nghi lễ Lang Ndaw, múa cũng đóng vài trò quan trọng như múa cây nến (tamia kaik apuei dién), múa khăn, múa phồn thực (tamia halang halep) với nhiều biểu tượng, động tác giao cảm mang tính phồn thực, trời đất giao hòa, để con người, muôn vật sinh sôi và phát triển.

Ông Kadhar sử dụng khăn đỏ làm đạo cụ múa mừng lễ Lang Ndaw

Thực hiện nghi lễ Lang Ndaw, ông Kadhar đủ tiêu chuẩn để đảm nhận các công việc dâng lễ trên đền tháp và phục vụ các lễ cúng của dòng tộc. Đồng thời, đánh dấu bước trưởng của ông Kadhar trong việc hành lễ và phụng sự thần linh. Qua đó, góp phần bảo tồn các nghi lễ truyền thống và di sản văn hóa lễ hội của người Chăm.

Nguồn:baodantoc.vn 

 

 

Tags:

Bài viết khác

Gìn giữ di sản văn hóa qua nghệ thuật múa dân gian Việt Nam

Trong kho tàng văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam, nghệ thuật múa dân gian chiếm một vị trí quan trọng, không chỉ là hình thức biểu đạt nghệ thuật mà còn là phương tiện chuyển tải những giá trị tinh thần, tín ngưỡng và bản sắc dân tộc. Từ miền Bắc đến miền Nam, mỗi vùng miền đều có những điệu múa đặc trưng, góp phần làm phong phú bức tranh văn hóa dân tộc Việt.

Khám phá khu di tích lịch sử văn hóa ngàn năm tuổi ở Bà Rịa – Vũng Tàu

Giữa miền đất Long Điền (Bà Rịa – Vũng Tàu) chan hòa nắng gió, khu di tích lịch sử – văn hóa Bàu Thành sừng sững như một nhân chứng lặng lẽ hàng nghìn năm lịch sử. Nơi đây, từng lớp dấu tích cổ xưa hòa quyện cùng nhịp sống hiện đại, tạo thành điểm đến độc đáo vừa gợi trí tò mò vừa làm dậy lên lòng tự hào về một vùng biên viễn oai hùng.

Lễ hội chùa Keo và 6 nghi thức độc đáo: Di sản văn hóa tâm linh Việt Nam

Nằm yên bình bên dòng sông Hồng thơ mộng, chùa Keo – tên chữ là Thần Quang Tự – tọa lạc tại xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Đây là một trong những ngôi chùa cổ kính, có giá trị lịch sử và nghệ thuật bậc nhất ở Việt Nam.

Làng nghề bánh tráng Trảng Bàng – Di sản văn hóa của người dân Nam Bộ

Nhắc đến Tây Ninh, người ta thường nghĩ ngay đến món bánh canh Trảng Bàng trứ danh. Thế nhưng, mảnh đất nắng gió này còn ẩn chứa một di sản văn hóa lâu đời: làng nghề bánh tráng phơi sương Trảng Bàng – nơi kết tinh tinh hoa ẩm thực và tâm hồn người dân Nam Bộ.

Người mở cõi – Vị khai quốc công thần đất Đồng Nai

Cách đây 327 năm, vào mùa xuân năm 1698, theo lệnh Chúa Nguyễn Phúc Chu, Chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh dẫn binh thuyền xuôi dòng sông Sài Gòn rồi ngược dòng Đồng Nai, đặt chân đến vùng Cù Lao Phố. Với tầm nhìn chiến lược và phẩm chất của một nhà kiến thiết, ông đã nhanh chóng thiết lập dinh Trấn Biên, ổn định trật tự, khai sinh hệ thống hành chính cho vùng đất hoang hóa rộng lớn, mở đầu cho quá trình xác lập chủ quyền của Đàng Trong trên phần đất Nam Bộ ngày nay.

Lăng Văn Sơn: Nét chạm của di sản trong đô thị hiện đại

Giữa nhịp phát triển sôi động của vùng Tây Hà Nội, Lăng Văn Sơn – di tích lịch sử quốc gia tại xã Tân Hội, huyện Đan Phượng – vẫn là biểu tượng văn hóa, điểm tựa tâm linh và niềm tự hào của người dân địa phương. Nơi đây không chỉ gắn với vị tướng Văn Dĩ Thành – người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống quân Minh vào đầu thế kỷ XV – mà còn lưu giữ những giá trị trường tồn của vùng đất Tổng Gối anh hùng.

Hình tượng Dê trong văn hóa thế giới và nghệ thuật truyền thống Việt Nam.

Hình tượng con dê là một biểu tượng phổ biến trong nhiều nền văn hóa trên thế giới, với ý nghĩa đa dạng từ tôn giáo, triết lý đến nghệ thuật và tín ngưỡng dân gian. Tại Việt Nam, con dê không chỉ là động vật quen thuộc trong đời sống nông nghiệp mà còn giữ vị trí biểu tượng trong nghệ thuật tạo hình và kiến trúc truyền thống.

Bảo tàng – Thư viện Bà Rịa - Vũng Tàu: Hành trình đưa di sản văn hoá đến gần hơn với du khách

Không chỉ lưu giữ ký ức, di sản văn hóa còn là nhịp cầu kết nối giữa quá khứ và hiện tại, giữa người dân và quê hương, giữa du khách và những câu chuyện lịch sử tưởng như đã lùi xa. Ở thành phố du lịch biển Vũng Tàu – hành trình ấy đang được tiếp nối sáng tạo và nhân văn qua nỗ lực không ngừng của Bảo tàng – Thư viện tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Top