banner 728x90

Trống, chiêng trong đời sống văn hóa của đồng bào các dân tộc

30/10/2024 Lượt xem: 2433

Trống, chiêng là bộ nhạc cụ có vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống thường ngày và văn hóa tín ngưỡng truyền đời của đa phần đồng bào các dân tộc ở Sơn La. Nhạc cụ này gắn liền với mọi nghi lễ truyền thống, được coi là linh hồn trong văn hóa tinh thần.

Hầu hết đồng bào các dân tộc của Sơn La đều sử dụng trống hoặc cả trống và chiêng trong các nghi lễ truyền thống. Tùy theo từng nghi lễ mà tiếng trống, chiêng mang những ý nghĩa khác nhau. Với đồng bào Thái, trống và chiêng không thể thiếu trong các cuộc vui, lễ hội của bản làng. Hình ảnh bộ trống, chiêng được đặt tại sân nhà văn hóa với hai người chủ trì đánh trống, chiêng, động tác nhịp nhàng đã trở nên quen thuộc trong mỗi dịp lễ hội, tề tựu đông đủ bà con lối xóm chung vui trong dịp đặc biệt. Tiếng trống, chiêng làm nền cho điệu xòe đêm hội, gắn kết mọi người không phân biệt gái trai, già trẻ hay dân tộc.

Bộ nhạc cụ trống và chiêng của đồng bào dân tộc Thái

Với đồng bào Thái, trống và chiêng được sử dụng để tạo âm thanh, giữ nhịp điệu cho điệu múa xòe ngày hội hoặc cũng được dùng trong tang ma. Tùy theo nghi lễ sử dụng mà nhịp điệu trống, chiêng có sự khác nhau, chỉ cần nghe nhịp trống là biết có chuyện vui hay buồn. Kỹ thuật chế tác trống, đúc chiêng rất khó, đòi hỏi sự tỉ mỉ, khéo léo của đôi bàn tay, biết tính toán về kích thước và có khả năng thẩm âm tốt. Riêng với trống, tùy theo mục đích sử dụng trong gia đình, dòng họ hay làng bản cần kích thước lớn nhỏ khác nhau, căng bằng da bò là chủ yếu. Để có một chiếc trống âm thanh chuẩn, vang vọng núi rừng thì đường kính mặt trống phải đạt kích thước khoảng 6 nắm tay, tương đương từ 50-60 cm, chiều cao của trống bằng 10-12 nắm tay, tương đương 0,8-1 mét.

Còn với đồng bào dân tộc Dao, tiếng trống, tiếng chiêng gắn liền với những nghi lễ vòng đời từ lúc một người sinh ra, lớn lên, công nhận trưởng thành cho đến khi khuất núi. Trống của dân tộc Dao có chung một thiết kế và kích thước giống nhau, mặt trống có đường kính khoảng 40cm, cao 30-35cm, tang trống bằng nhiều miếng gỗ ghép lại với nhau, mặt trống phải căng bằng da trâu đã qua xử lý. Tiếng trống nghe giòn, vang và độ vọng không xa. Còn chiêng thường nhỏ, không có núm, đường kính chỉ khoảng 20cm, tiếng chiêng nghe trong trẻo, dễ bắt nhịp và hòa cùng vào tiếng trống.

Bộ nhạc cụ trống và chiêng của đồng bào dân tộc Thái

Còn với dân tộc La Ha, Khơ Mú, Mường... trống và chiêng cũng là nhạc cụ không thể thiếu trong đời sống tinh thần của đồng bào, xuất hiện trong ngày hội vui và các nghi lễ mang đậm phong tục tập quán truyền đời. Đặc biệt là những ngày hội lớn, tiếng trống “tùng, tùng…” vang vọng theo nhịp dẫn dắt bước chân người bước vào vòng xòe. Người người nắm tay hòa mình vào vòng xòe, nghe nhịp trống để bước chân một cách tự nhiên để cả vòng xòe cứ thế nới rộng và nhịp nhàng, uyển chuyển theo tiếng trống chiêng 2/4, 4/4 đều tăm tắp, nối dài không dứt suốt những đêm hội.

Đồng bào các dân tộc ở Sơn La có nhiều loại nhạc cụ, mỗi nhạc cụ mang những ý nghĩa riêng, giúp truyền tải những tâm tư, tình cảm, khát vọng và lời muốn nói từ trong tâm khảm. Nhưng trống và chiêng vẫn luôn là bộ nhạc cụ giữ hồn cho âm nhạc dân gian, giữ nhịp cho những điệu dân vũ truyền thống và chứa đựng trong đó cả câu chuyện về văn hóa ngàn đời của đồng bào trong kỹ thuật chế tác, quy tắc sử dụng và cách gìn giữ đầy trách nhiệm của các thế hệ nối tiếp nhau, để tiếng trống, tiếng chiêng vang vọng mãi trong văn hóa tinh thần của đồng bào các dân tộc Sơn La.

Theo Báo Sơn La

 

 

 

Tags:

Bài viết khác

Nét văn hóa đặc sắc của dân tộc Mảng

Phong tục, tập quán của người Mảng phản ánh triết lý sống hòa hợp với tự nhiên, từ việc chăm sóc mùa màng đến các nghi lễ tôn thờ thần linh, thể hiện một triết lý sống cân bằng, nơi con người và thiên nhiên không chỉ tồn tại song song mà còn bổ trợ, duy trì sự sống lẫn nhau. Mọi hành động đều phản ánh sự kính trọng và thấu hiểu về mối quan hệ mật thiết giữa con người và thế giới tự nhiên.

Đôi đũa trong văn hóa người Tày

Từ bao đời nay, đôi đũa đã trở thành vật dụng rất quen thuộc trong bữa ăn hằng ngày, hơn nữa còn thể hiện bản sắc văn hóa trong đời sống và tập quán của người Tày.

Nét đặc trưng trong dân ca dân tộc Mông

Đồng bào dân tộc Mông vốn có văn hóa rất đặc sắc. Trong đó, dân ca là một nét văn hóa đặc trưng không thể không nhắc tới. Những tiếng hát dân ca từ bao đời nay vẫn được cất lên mỗi dịp sum vầy hay chia xa, lúc vui hay lúc buồn, thay cho tiếng lòng vời vợi chất chứa bao nỗi niềm và cảm xúc của mỗi người.

Nét đẹp trong trang phục truyền thồng của dân tộc Brâu

Cũng giống như các dân tộc Tây Nguyên, trang phục dân tộc Brâu có 2 màu đỏ và đen làm chủ đạo, không cầu kỳ, không sặc sỡ, mà đơn giản, hoà quyện với khung cảnh núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ vẫn toát lên vẻ thanh thoát với màu sắc tinh tế, nhẹ nhàng.

Lễ Mở cửa kho lúa của người Rơ Măm

Vào những ngày tiết trời chuẩn bị sang Đông, khi công việc thu hoạch lúa rẫy đã xong, khi hạt lúa, hạt bắp đã được đem về cất kỹ trong nhà kho, đây cũng là lúc người Rơ Măm làng Le, xã Mô Rai, huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum chuẩn bị các nghi thức cho việc tổ chức Lễ Mở cửa kho lúa.

Ghe ngo trong đời sống của đồng bào Khmer

Trong đời sống của đồng bào Khmer Nam Bộ luôn gắn liền với văn hóa lễ hội; trong đó ghe ngo là sản phẩm văn hóa, tinh thần, có giá trị to lớn đối với đồng bào. Chiếc ghe ngo gắn liền với văn hóa Khmer Nam Bộ, đua ghe ngo cũng vì thế chứa đựng nhiều yếu tố văn hóa tâm linh.

Phong tục kết bạn “tồng” của người Tày

Phong tục kết bạn “tồng” của người Tày ở Cao Bằng là một phong tục có từ lâu đời, gắn kết những người có sự đồng điệu về tâm hồn, tính cách, muốn chia sẻ buồn vui với nhau trong cuộc sống.

Cúng việc lề – Nét văn hóa đặc trưng của người Việt vùng Tây Nam Bộ

Cúng Việc lề là nghi thức cúng truyền thống theo việc đã thành lề thói, thành lệ, được hình thành trong quá trình khai phá, khẩn hoang vùng đất Nam bộ của người Việt. Tín ngưỡng này không có ở miền Bắc và không rõ ràng ở miền Trung.
Top