banner 728x90

Trống, chiêng trong đời sống văn hóa của đồng bào các dân tộc

30/10/2024 Lượt xem: 3215

Trống, chiêng là bộ nhạc cụ có vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống thường ngày và văn hóa tín ngưỡng truyền đời của đa phần đồng bào các dân tộc ở Sơn La. Nhạc cụ này gắn liền với mọi nghi lễ truyền thống, được coi là linh hồn trong văn hóa tinh thần.

Hầu hết đồng bào các dân tộc của Sơn La đều sử dụng trống hoặc cả trống và chiêng trong các nghi lễ truyền thống. Tùy theo từng nghi lễ mà tiếng trống, chiêng mang những ý nghĩa khác nhau. Với đồng bào Thái, trống và chiêng không thể thiếu trong các cuộc vui, lễ hội của bản làng. Hình ảnh bộ trống, chiêng được đặt tại sân nhà văn hóa với hai người chủ trì đánh trống, chiêng, động tác nhịp nhàng đã trở nên quen thuộc trong mỗi dịp lễ hội, tề tựu đông đủ bà con lối xóm chung vui trong dịp đặc biệt. Tiếng trống, chiêng làm nền cho điệu xòe đêm hội, gắn kết mọi người không phân biệt gái trai, già trẻ hay dân tộc.

Bộ nhạc cụ trống và chiêng của đồng bào dân tộc Thái

Với đồng bào Thái, trống và chiêng được sử dụng để tạo âm thanh, giữ nhịp điệu cho điệu múa xòe ngày hội hoặc cũng được dùng trong tang ma. Tùy theo nghi lễ sử dụng mà nhịp điệu trống, chiêng có sự khác nhau, chỉ cần nghe nhịp trống là biết có chuyện vui hay buồn. Kỹ thuật chế tác trống, đúc chiêng rất khó, đòi hỏi sự tỉ mỉ, khéo léo của đôi bàn tay, biết tính toán về kích thước và có khả năng thẩm âm tốt. Riêng với trống, tùy theo mục đích sử dụng trong gia đình, dòng họ hay làng bản cần kích thước lớn nhỏ khác nhau, căng bằng da bò là chủ yếu. Để có một chiếc trống âm thanh chuẩn, vang vọng núi rừng thì đường kính mặt trống phải đạt kích thước khoảng 6 nắm tay, tương đương từ 50-60 cm, chiều cao của trống bằng 10-12 nắm tay, tương đương 0,8-1 mét.

Còn với đồng bào dân tộc Dao, tiếng trống, tiếng chiêng gắn liền với những nghi lễ vòng đời từ lúc một người sinh ra, lớn lên, công nhận trưởng thành cho đến khi khuất núi. Trống của dân tộc Dao có chung một thiết kế và kích thước giống nhau, mặt trống có đường kính khoảng 40cm, cao 30-35cm, tang trống bằng nhiều miếng gỗ ghép lại với nhau, mặt trống phải căng bằng da trâu đã qua xử lý. Tiếng trống nghe giòn, vang và độ vọng không xa. Còn chiêng thường nhỏ, không có núm, đường kính chỉ khoảng 20cm, tiếng chiêng nghe trong trẻo, dễ bắt nhịp và hòa cùng vào tiếng trống.

Bộ nhạc cụ trống và chiêng của đồng bào dân tộc Thái

Còn với dân tộc La Ha, Khơ Mú, Mường... trống và chiêng cũng là nhạc cụ không thể thiếu trong đời sống tinh thần của đồng bào, xuất hiện trong ngày hội vui và các nghi lễ mang đậm phong tục tập quán truyền đời. Đặc biệt là những ngày hội lớn, tiếng trống “tùng, tùng…” vang vọng theo nhịp dẫn dắt bước chân người bước vào vòng xòe. Người người nắm tay hòa mình vào vòng xòe, nghe nhịp trống để bước chân một cách tự nhiên để cả vòng xòe cứ thế nới rộng và nhịp nhàng, uyển chuyển theo tiếng trống chiêng 2/4, 4/4 đều tăm tắp, nối dài không dứt suốt những đêm hội.

Đồng bào các dân tộc ở Sơn La có nhiều loại nhạc cụ, mỗi nhạc cụ mang những ý nghĩa riêng, giúp truyền tải những tâm tư, tình cảm, khát vọng và lời muốn nói từ trong tâm khảm. Nhưng trống và chiêng vẫn luôn là bộ nhạc cụ giữ hồn cho âm nhạc dân gian, giữ nhịp cho những điệu dân vũ truyền thống và chứa đựng trong đó cả câu chuyện về văn hóa ngàn đời của đồng bào trong kỹ thuật chế tác, quy tắc sử dụng và cách gìn giữ đầy trách nhiệm của các thế hệ nối tiếp nhau, để tiếng trống, tiếng chiêng vang vọng mãi trong văn hóa tinh thần của đồng bào các dân tộc Sơn La.

Theo Báo Sơn La

 

 

 

Tags:

Bài viết khác

Độc đáo lễ cưới của đồng bào Ve

Sau thời gian tìm hiểu, cặp đôi quyết định thưa chuyện với cha mẹ hai bên gia đình để tìm mai mối se duyên. Nếu mọi thứ tốt đẹp, một lễ cưới sau đó được diễn ra với nhiều nghi thức truyền thống mang đậm giá trị bản sắc của đồng đồng bào Ve…

Văn hóa dùng đũa: Tinh thần lễ nghĩa trong mỗi bữa ăn Việt

Ẩm thực Việt Nam là sự giao thoa hài hòa giữa các vùng miền, mỗi nơi mang một sắc thái riêng biệt trong cách chế biến, bày biện và thưởng thức món ăn. Tuy nhiên, giữa sự đa dạng ấy, có một điểm chung mang tính biểu tượng, đó là việc sử dụng đũa – một vật dụng giản dị nhưng đầy ý nghĩa trong đời sống ẩm thực của người Việt.

Nét đẹp tâm linh trong nghi lễ buộc chỉ cổ tay của người Khùa

Trong kho tàng văn hóa phong phú của các dân tộc thiểu số Việt Nam, nghi lễ buộc chỉ cổ tay của người Khùa là một nét đẹp tâm linh đặc sắc, phản ánh đậm nét thế giới quan và nhân sinh quan truyền thống. Người Khùa – một nhóm dân tộc sinh sống chủ yếu ở vùng biên giới Việt – Lào, đặc biệt tại huyện Bố Trạch và Minh Hóa (tỉnh Quảng Bình) – vẫn lưu giữ tập tục này như một phần thiêng liêng trong đời sống văn hóa tinh thần.

Cúng Tết Đoan Ngọ và những điều cần lưu ý

Phong tục cúng Tết Đoan Ngọ đã tồn tại từ xa xưa ở Việt Nam, nhưng cúng sao cho đúng, cho đủ lại là điều không phải ai cũng biết.

Lễ tế trâu trên đền tháp Po Klong Garai

Cứ đến chu kỳ 7 năm, tộc họ Cuah lại tổ chức Nghi lễ tế trâu dâng lên thần linh trên đền tháp Po Klong Garai. Đây là dịp để các thành viên trong dòng tộc gặp mặt, cùng nhau tưởng nhớ ông bà, tổ tiên và cũng là cách để bảo tồn các nghi lễ truyền thống của người Chăm, nhất là hát xướng ca của chức sắc ông Kadhar cùng các điệu múa dâng lễ đặc sắc, thu hút người xem.

Đền tháp Po Klong Garai: Biểu tượng vững bền của văn hóa Chăm

Đền tháp Po Klong Garai là một trong những công trình kiến trúc và điêu khắc tiêu biểu và nổi bật của người Chăm được bảo tồn khá nguyên vẹn. Tháp tọa lạc trên đồi Lá trầu (Mbuen Hala), thuộc phường Đô Vinh, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận. Văn khắc bằng chữ Chăm cổ trên đá sa thạch cung cấp những thông tin về văn hóa, lịch sử quý giá như công lao và thần tích của vua Po Klong Garai, các hoạt động tế lễ, cúng bái và tổ chức xã hội của người Chăm

Độc đáo Lễ cưới “ Dứ bà đù” của người Hà Nhì đen (Lào Cai)

Trên mảnh đất biên cương Y Tý, Lào Cai, người Hà Nhì đen vẫn gìn giữ nhiều phong tục truyền thống độc đáo, trong đó lễ cưới “Dứ bà đù” được xem là một nét văn hóa tiêu biểu, phản ánh rõ bản sắc dân tộc và đời sống tinh thần của họ.

Vang danh nghề gốm Lái Thiêu (Bình Dương)

Bình Dương được thiên nhiên ưu đãi có nguồn khoáng sản đất sét và cao lanh rất phù hợp cho nghề làm gốm. Trong những làng gốm ở Bình Dương thì làng gốm Lái Thiêu đã nổi danh trong và ngoài nước bởi sự mộc mạc nhưng không kém phần tinh tế và đậm chất Nam bộ.
Top