banner 728x90

Niềm tin tín ngưỡng của người Việt Nam qua những con số

14/06/2024 Lượt xem: 2449

Đã có thời kỳ, người ta nghĩ một cách đơn giản rằng xã hội càng phát triển, khoa học kỹ thuật càng tiến bộ thì con người càng bớt đi niềm tin vào thế giới vô hình, con người sẽ sống tỉnh táo hơn, khoa học hơn. Có lẽ điều này chỉ đúng một phần, vì khi thế giới càng chia nhỏ rành mạch, con người càng mở rộng tầm nhìn thì những khoảng trống, những điều chưa thể giải thích càng lớn. Đó là điều bí ẩn của thế giới tâm linh, đặc biệt là mối liên hệ ràng buộc vô hình nào đó giữa những người cùng dòng máu.

Khoa học cũng đang tìm cách chứng minh về dòng điện sinh học có thật giữa những người chung huyết thống dù họ ở rất xa nhau. Vậy có sự liên hệ giữa người sống và người thân đã mất không? Các nhà nghiên cứu còn đang tìm tòi, nhưng niềm tin về mối liên hệ ấy vốn đã tồn tại, lưu giữ hàng nghìn năm, vẫn còn đang chi phối con người thời hiện tại.

Trước hết, chúng ta cấn lưu tâm đến các số liệu điều tra thực tế:

Trong chuyên luận Thực trạng văn hóa gia đình Việt Nam, qua khảo sát năm địa bàn hai đô thị lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, ba vùng nông thôn là Hà Tây, Hòa Bình và Cần Thơ, các phiếu điều tra cho chúng ta thấy những con số về tín ngưỡng này:

     - 100% gia đình có bàn thờ tổ tiên.

     - 96,75% bàn thờ được đặt ở vị trí tôn nghiêm nhất trong nhà.

     - 95,85% các cặp vợ chồng đều nhớ ngày giỗ của người thân.

Việc chăm sóc mồ mả tổ tiên những năm gần đây được chú trọng nhiều hơn trước, gần 100% gia đình ở nông thôn thường xuyên chăm nom. Ở Hà Nội, con số này là 85% và thành phố Hồ Chí Minh là 89%.

Cũng theo kết quả khảo sát của tác giả cuốn sách, các nghi thức tang lễ cúng giỗ, sau một thời gian dài tiến hành giản tiện (do chiến tranh hoặc do điều kiện kinh tế), hiện nay đang quay trở lại với những hình thức cầu kỳ, phức tạp. Nhiều gia đình mời cả nhà sư đến cầu kinh trong tang lễ: 61,22% ở thành phố Hồ Chí Minh, 48% ở Hà Nội, 4% ở nông thôn Hà Tây, 3,13% ở nông thôn Cần Thơ.

Xu hướng gửi linh hồn người chết lên chùa (để nhà chùa thường xuyên hương khói) cũng tăng: Hà Nội 28%, thành phố Hồ Chí Minh 28,4%, nông thôn Hà Tây 3%, Cần Thơ 1,56%. Riêng ở Hòa Bình, người Mường không có phong tục này.

Tín ngưỡng thờ cúng ông Tổ dòng họ cũng được phục hồi. Ở các nơi đều có hiện tượng đua nhau dựng lại và tu sửa từ đường dòng họ, xây cất, quy tụ mồ mả tổ tiên. Việc tập hợp con cháu trong ngày giỗ được coi như việc làm đương nhiên cần thiết ở nông thôn: ở Hà Tây 91%, Hòa Bình 88,5%, Cần Thơ 86%. Ngay ở các đô thị, việc tập hợp xem chừng rất khó khăn, nhưng con số cho thấy cũng đáng kể: 27% ở Hà Nội và 18,4% ở thành phố Hồ Chí Minh. Riêng vấn đề gia phả có điều đặc biệt. Do một thời gian dài chiến tranh, gia phả bị thất lạc và bị coi nhẹ nên đa số các gia đình không còn gia phả (ở Hà Nội số gia đình còn gia phả là 15%, thành phố Hồ Chí Minh là 15,3%). Càng hiếm các gia đình những năm gần đây ghi chép tiếp gia phả (8% ở Hà Nội, 8,2% ở thành phố Hồ Chí Minh). Người ta đã rút ra nhận xét rằng: “Việc phục hồi gia phả khó khăn hơn nhiều so với việc phục hồi thờ cúng tổ tiên”.

Ban Nghiên cứu Tôn giáo

 

Tags:

Bài viết khác

Phong tục cúng giỗ đầu trong văn hóa của người Việt

Giỗ đầu còn gọi là Lễ tiểu tường, là ngày giỗ đầu tiên, tổ chức sau ngày người mất đúng một năm. Đây cũng chính là một nét văn hóa đặc trưng của người Việt từ xa xưa cho đến hiện nay.

Sự khác biệt trong phong tục thờ cúng giữa người Hoa với người Việt

Dù chịu ảnh hưởng bởi lối sống của người Việt nhưng người Hoa vẫn giữ được những phong tục riêng, đặc biệt là phong tục thờ cúng. Chính việc giữ gìn phong tục này đã tạo nên sự khác biệt độc đáo giữa người Việt và người Hoa, góp phần làm đa dạng bản sắc văn hóa của các dân tộc.

Hình tượng chim hạc trong đời sống tâm linh người Việt

Chim Hạc với hình ảnh nhẹ nhàng, tinh tế uyển chuyển là biểu trưng cho điềm lành, thanh cao thoát tục, trường thọ và hạnh phúc. Người dân dùng hình tượng Hạc để biểu thị mong ước ấm êm, gia đình vui vẻ.

Vai trò của bản hội trong tín ngưỡng thờ Mẫu

Bản hội chính là một loại hình cộng đồng tôn giáo, tín ngưỡng. Cộng đồng này được cố kết với nhau bởi có cùng niềm tin vào sự độ trì của các vị thần trong tín ngưỡng thờ Mẫu và có chung một đồng thầy với những năng lực đặc biệt. Những phân tích lý thuyết về mối quan hệ giữa cộng đồng và di sản văn hóa đã chỉ ra vai trò chủ thể sáng tạo, thực hành, bảo vệ và trao truyền di sản của cộng đồng. Không có cộng đồng ắt sẽ không có di sản.

Tứ Phủ Thánh Cô trong tín ngưỡng thờ Mẫu

Tứ Phủ Thánh Cô gồm Thập Nhị Thánh Cô (Mười hai cô). Trong Đạo Mẫu, Tứ Phủ Thánh Cô đứng sau Ngũ Vị Tôn Ông, Tứ Phủ Chầu bà, Tứ Phủ Quan Hoàng, đứng trên Tứ Phủ Thánh Cậu.

Tục thờ cúng bà Mụ trong tín ngưỡng người Việt

Lễ cúng Mụ thịnh hành trong một số dân tộc châu Á trong đó có dân tộc Việt, và thường được tổ chức vào những thời điểm khi đứa trẻ mới sinh được 3 ngày (ngày đầy cữ), 1 tháng (ngày đầy tháng) và 1 năm (ngày thôi nôi).

Hành lễ trong tín ngưỡng thờ Mẫu

Cũng như các tôn giáo, tín ngưỡng khác, tín ngưỡng thờ Mẫu cũng có những nguyên tắc nhất định trong việc hành lễ. Hành lễ trong tín ngưỡng thờ Mẫu là hệ thống những hành vi, động tác nhằm biểu hiện sự tôn kính của con người với thần linh, phản ánh những ước mơ chính đáng của con người trước cuộc sống mà bản thân họ chưa có khả năng thực hiện.

Tứ Phủ Thánh Cậu trong tín ngưỡng thờ Mẫu

Tứ Phủ Thánh Cậu gồm có 12 Thánh Cậu, là các hình tượng nam thiếu niên, nhanh nhẹn, xông xáo, mạnh mẽ, hiếu động và thường là hầu cận của một vị thánh quan trong Tứ Phủ Quan Hoàng.
Top