banner 728x90

Niềm tin tín ngưỡng của người Việt Nam qua những con số

14/06/2024 Lượt xem: 2517

Đã có thời kỳ, người ta nghĩ một cách đơn giản rằng xã hội càng phát triển, khoa học kỹ thuật càng tiến bộ thì con người càng bớt đi niềm tin vào thế giới vô hình, con người sẽ sống tỉnh táo hơn, khoa học hơn. Có lẽ điều này chỉ đúng một phần, vì khi thế giới càng chia nhỏ rành mạch, con người càng mở rộng tầm nhìn thì những khoảng trống, những điều chưa thể giải thích càng lớn. Đó là điều bí ẩn của thế giới tâm linh, đặc biệt là mối liên hệ ràng buộc vô hình nào đó giữa những người cùng dòng máu.

Khoa học cũng đang tìm cách chứng minh về dòng điện sinh học có thật giữa những người chung huyết thống dù họ ở rất xa nhau. Vậy có sự liên hệ giữa người sống và người thân đã mất không? Các nhà nghiên cứu còn đang tìm tòi, nhưng niềm tin về mối liên hệ ấy vốn đã tồn tại, lưu giữ hàng nghìn năm, vẫn còn đang chi phối con người thời hiện tại.

Trước hết, chúng ta cấn lưu tâm đến các số liệu điều tra thực tế:

Trong chuyên luận Thực trạng văn hóa gia đình Việt Nam, qua khảo sát năm địa bàn hai đô thị lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, ba vùng nông thôn là Hà Tây, Hòa Bình và Cần Thơ, các phiếu điều tra cho chúng ta thấy những con số về tín ngưỡng này:

     - 100% gia đình có bàn thờ tổ tiên.

     - 96,75% bàn thờ được đặt ở vị trí tôn nghiêm nhất trong nhà.

     - 95,85% các cặp vợ chồng đều nhớ ngày giỗ của người thân.

Việc chăm sóc mồ mả tổ tiên những năm gần đây được chú trọng nhiều hơn trước, gần 100% gia đình ở nông thôn thường xuyên chăm nom. Ở Hà Nội, con số này là 85% và thành phố Hồ Chí Minh là 89%.

Cũng theo kết quả khảo sát của tác giả cuốn sách, các nghi thức tang lễ cúng giỗ, sau một thời gian dài tiến hành giản tiện (do chiến tranh hoặc do điều kiện kinh tế), hiện nay đang quay trở lại với những hình thức cầu kỳ, phức tạp. Nhiều gia đình mời cả nhà sư đến cầu kinh trong tang lễ: 61,22% ở thành phố Hồ Chí Minh, 48% ở Hà Nội, 4% ở nông thôn Hà Tây, 3,13% ở nông thôn Cần Thơ.

Xu hướng gửi linh hồn người chết lên chùa (để nhà chùa thường xuyên hương khói) cũng tăng: Hà Nội 28%, thành phố Hồ Chí Minh 28,4%, nông thôn Hà Tây 3%, Cần Thơ 1,56%. Riêng ở Hòa Bình, người Mường không có phong tục này.

Tín ngưỡng thờ cúng ông Tổ dòng họ cũng được phục hồi. Ở các nơi đều có hiện tượng đua nhau dựng lại và tu sửa từ đường dòng họ, xây cất, quy tụ mồ mả tổ tiên. Việc tập hợp con cháu trong ngày giỗ được coi như việc làm đương nhiên cần thiết ở nông thôn: ở Hà Tây 91%, Hòa Bình 88,5%, Cần Thơ 86%. Ngay ở các đô thị, việc tập hợp xem chừng rất khó khăn, nhưng con số cho thấy cũng đáng kể: 27% ở Hà Nội và 18,4% ở thành phố Hồ Chí Minh. Riêng vấn đề gia phả có điều đặc biệt. Do một thời gian dài chiến tranh, gia phả bị thất lạc và bị coi nhẹ nên đa số các gia đình không còn gia phả (ở Hà Nội số gia đình còn gia phả là 15%, thành phố Hồ Chí Minh là 15,3%). Càng hiếm các gia đình những năm gần đây ghi chép tiếp gia phả (8% ở Hà Nội, 8,2% ở thành phố Hồ Chí Minh). Người ta đã rút ra nhận xét rằng: “Việc phục hồi gia phả khó khăn hơn nhiều so với việc phục hồi thờ cúng tổ tiên”.

Ban Nghiên cứu Tôn giáo

 

Tags:

Bài viết khác

Nhạc cụ truyền thống trong hát Chầu Văn

Hát Chầu văn hay còn được gọi là hát văn hay hát hầu đồng là một loại hình nghệ thuật ca hát cổ truyền và một phần tín ngưỡng thờ Mẫu của văn hóa Việt Nam. Đây là hình thức lễ nhạc gắn liền với nghi thức hầu đồng của tín ngưỡng Tứ phủ (tín ngưỡng thờ Mẫu) và tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần (Trần Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuần), một tín ngưỡng dân gian Việt Nam.

Nét văn hóa tâm linh trong kiến trúc nhà thờ họ

Kiến trúc nhà thờ họ là biểu tượng vật chất đậm nét văn hóa phi vật thể của các tộc họ ở Việt Nam. Đây là nơi lưu giữ giá trị, tổ chức, quan hệ, và thành tựu của mỗi dòng tộc qua nhiều thế hệ. Theo truyền thống, nhà thờ họ thường được xây dựng theo cấu trúc đơn giản nhưng hài hòa, mang đậm nét riêng của văn hóa dân gian.

Vai trò và ý nghĩa của nhà thờ họ tại Việt Nam

Nhà thờ tổ hay từ đường là một ngôi nhà dành riêng cho việc thờ cúng tổ tiên của một dòng họ hay từng chi họ tính theo phụ hệ (dòng của cha). Nhà thờ họ phổ biến trong văn hóa người Việt tại khu đồng bằng và trung du Bắc Bộ và Trung Bộ.

Tứ quý trong tranh dân gian Đông Hồ

Tranh Tứ quý thuộc loại tứ bình (bốn bức) khổ lớn, vẽ cảnh tứ thời: Xuân, hạ, thu, đông. Mỗi mùa có một loài cây, loài hoa đặc trưng. Mùa xuân: hoa mai, hoa lan, hoa đào. Mùa hạ: hoa sen, hoa hồng, hoa lựu. Mùa thu: hoa cúc, hoa phù dung. Mùa đông: cây trúc, cây thông (tùng).

Cỗ và mâm cỗ truyền thống của người Việt

Mâm cỗ ở mỗi vùng quê Việt Nam có hương vị riêng nhưng bao giờ cũng vậy, mỗi mâm có 4 hoặc 6 người. Thông thường người ta kiêng ngồi 5 người, ở mâm cỗ có ít nhất hai người thân nhau, cũng có khi 3 cặp đều thân nhau thành một cỗ. Người nhà chủ tế nhị mời những người ăn ý với nhau vào một cỗ, sàn sàn lứa tuổi với nhau vào cùng mâm. Những người có tửu lượng mạnh hoặc nhẹ vào một cỗ, những người bằng vai phải lứa với nhau vào một cỗ. Đàn ông vào cỗ với nhau, còn đàn bà ngồi với đàn bà.

Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ Việt Nam

Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều mang trong mình những nét văn hóa riêng. Văn hóa là cái gốc cho sự phát triển, phồn thịnh của một đất nước. Việt Nam là một dân tộc mang một nền văn hóa đậm đà bản sắc, đa dạng và phong phú. Tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam từ lâu đã đóng vai trò quan trọng đối với người dân Việt, văn hóa tín ngưỡng có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống xã hội và tâm thức người dân.

Tín ngưỡng dân gian trong lễ hội cổ truyền ở Việt Nam

Tín ngưỡng dân gian đóng vai trò quan trọng trong các lễ hội cổ truyền của Việt Nam, thể hiện bản sắc văn hóa, tâm linh và lòng tôn kính đối với các thế lực siêu nhiên, Tổ tiên, thần thánh. Bài viết tìm hiểu một số đặc điểm nổi bật về tín ngưỡng dân gian trong các lễ hội cổ truyền của người Việt, đặc biệt, lễ hội liên quan đến tín ngưỡng dân gian như: tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng vạn vật hữu linh, tín ngưỡng thờ Thành hoàng, tín ngưỡng thờ Tổ tiên, tín ngưỡng thờ Mẫu...

Ý nghĩa và mục đích của tục “Bán khoán con lên chùa”

Bán khoán con cho chùa là một tín ngưỡng dân gian, một hình thức gửi gắm về mặt tâm linh. Có hai hình thức bán khoán con lên chùa: Bán khoán đến hết năm 12 tuổi rồi “chuộc” con ra, hoặc là bán khoán trọn đời. Từ xưa đến nay, nhiều gia đình quan niệm, khi sinh con ra, đứa trẻ hay đau yếu, khóc lóc không phải là do bị bệnh từ thân hoặc những đứa trẻ sinh vào giờ kỵ, ngày phạm (tức ngày mùng 1, 5, 8, 15, 23, 24, 28 và ngày 30 Âm lịch).
Top