banner 728x90

Nhạc cụ truyền thống trong hát Chầu Văn

19/03/2025 Lượt xem: 2372

Hát Chầu văn hay còn được gọi là hát văn hay hát hầu đồng là một loại hình nghệ thuật ca hát cổ truyền và một phần tín ngưỡng thờ Mẫu của văn hóa Việt Nam. Đây là hình thức lễ nhạc gắn liền với nghi thức hầu đồng của tín ngưỡng Tứ phủ (tín ngưỡng thờ Mẫu) và tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần (Trần Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuần), một tín ngưỡng dân gian Việt Nam.

Thời kỳ thịnh vượng nhất của Chầu văn là vào khoảng cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Bằng cách sử dụng lời ca trau chuốt, nghiêm trang và âm nhạc mang tính tâm linh mà chầu văn được coi là hình thức âm nhạc mang  ý nghĩa hầu Thánh.

Hát Chầu Văn thể hiện khát vọng cao cả của con người hướng tới cái cao đẹp hơn, đó chính là nét cao quý và tinh túy nhất của Chầu văn. Yếu tố tâm linh thể hiện trong hát Văn ở nhiều mặt, không gian tâm linh, tâm linh trong gia đình, cá nhân, cộng đồng, ma chay, cưới xin.

Hát Chầu văn có nhiều hình thức khác nhau gồm: hát thờ, hát cửa đền, hát hầu, hát thi. Nhịp điệu và tiết tấu có chậm, vừa và nhanh. Bên cạnh những làn điệu có tiết tấu rõ ràng, tính chất âm nhạc trong sáng, đậm nét dân ca đồng bằng Bắc Bộ trong các điệu bồng mạc, sa mạc, cò lả…và âm hưởng của Ca trù trong các điệu bỉ, phú nói, phú bình, phú chênh, phú tỳ bà…cũng thể hiện rất rõ nét trong kết cấu giai điệu của âm nhạc trong hát Chầu văn.

Theo phân loại của nghệ nhân dựa trên thực tế, nhạc cụ cổ truyền của Việt Nam có 2 nhóm: Đàn (giai điệu) và nhạc cụ gõ (phách, cảnh, trống).

Về đàn

Giai điệu trong hát Chầu văn ban đầu chỉ có Đàn Nguyệt sau đó mới thêm vào một số đàn khác như thập lục, nhị, sáo,…
Nhạc cụ không thể thiếu trong hát văn chính là Đàn Nguyệt (trong Nam gọi là đàn kìm): Nguyệt có thể chơi trong các dàn nhạc bát âm hoặc dàn nhạc tài tử nhưng trong hát chầu văn đàn nguyệt thể hiện rõ bản sắc của nó nhất. Thậm chí có thể nói rằng đàn nguyệt là biểu tưởng của âm nhạc hát văn từ hơn một thế kỷ nay, âm thanh trầm và ấm khả năng biến tấu vô tận của đàn nguyệt là một đồng minh không thể thiếu cho cung văn hát văn chầu thánh. Các cụ thường giải thích tên đàn do bầu vang hình căng tròn.


Đàn Nguyệt không thể thiếu trong hát Chầu văn

Sáo là nhạc khí hơi được làm bằng ống trúc hoặc ống nứa già. Sáo có một huyệt thổi hình bầu dục được sử dụng phổ biến tại Việt Nam.
Đàn Tranh là nhạc khí dây gảy loại không có dọc (cần đàn), đàn Tranh rất phổ biến tại Việt Nam và một số nước Châu Á. Đàn Tranh được gia nhập vào Việt Nam và trở thành một nhạc khí trong hệ nhạc khí dân tộc, có nhiều tác giả cho rằng đàn Tranh được du nhập vào Việt Nam từ Trung Quốc với tên gọi ban đầu là cây Zeng.
Đàn Nhị là nhạc khí dây kéo (bằng cung vĩ) có ở Việt Nam hàng ngàn năm nay. Đàn Nhị còn có tên gọi là đàn Cò, là nhạc khí phổ biến của dân tộc Việt và nhiều dân tộc khác như dân tộc Mường, Tày, Thái, Giê Triêng, Khmer…
Kèn Bầu là nhạc khí hơi dăm kép, còn được gọi là kèn Già Nam, kèn Loa, kèn Bóp hay kèn Bát. Âm thanh kèn Bầu khỏe, vang, nhạc điệu mạnh thích hợp để thể hiện nhiều cung bậc cảm xúc.
Đàn Bầu còn gọi là đàn Độc huyền là loại đàn một dây của Dân tộc Việt và một số Dân tộc khác như Mường (Tàn Máng), dân tộc Chăm (Rabap Katoh). Với âm thanh mềm mại, ngọt ngào và sâu lắng đàn Bầu thường được sử dụng để độc tấu, đệm cho ngâm thơ, tham gia trong Ban nhạc Tài tử, Ban nhạc Xẩm. Gần đây, đàn Bầu tham gia trong dàn nhạc Dân tộc Tổng hợp, Dàn nhạc Giao hưởng Dân tộc, Dàn nhạc Sân khấu Chèo, Cải lương. Đặc biệt đã có tác phẩm viết cho Đàn Bầu độc tấu cùng với Dàn nhạc Giao hưởng.

Về nhạc cụ gõ

Phách là một tấm tre già (cũng có phách làm bằng gỗ) dài độ ba mươi phân, rộng bốn phân, dầy gần 2 phân, hai đầu phách có hai chân cũng làm bằng khúc tre ấy tạc liền khối. Phách còn được dùng trong ả đào.
Cảnh là 1 cái cồng rất nhỏ, như một chiếc đĩa hình tròn đường kính độ mươi mười năm phân có thành xung quanh, là một nhạc cụ mà các thầy cúng hay dùng. Hồi đó thầy Kiêm hay dùng một cái đĩa tráng men thay cảnh vì không muốn mang theo bằng chứng dụng cụ cúng bái theo người.


Nhạc cụ hát Chầu văn

Trống bản (hay còn gọi trống ban) là chiếc trống có hai mặt, kích thước tương đối nhỏ, đường kính từ hai mươi đến ba mươi phân. Mặt trống thường làm bằng da trâu, rất căng, lúc đánh tiếng tương đối căng: toong , toong. Còn loại thứ hai là trống chầu, đường kính nhỏ hơn trống ban nhưng cao hơn, âm hưởng trầm hơn, các cung văn có thể dùng một trong hai loại hoặc ca hai trong một buổi hầu đồng.
Thanh la là nhạc khí tự thân vang của dân tộc Việt, được làm bằng hợp kim đồng thiếc có pha chì, hình tròn. Thanh la có hình dáng như chiếc Cồng, Chiêng không có núm, mặt hơi phồng, có thành cạnh và không định âm. Cạnh Thanh la có dùi hai lỗ thủng để xỏ một sợi dây quai. Thanh la có nhiều cỡ to, nhỏ khác nhau, đường kính từ 15cm đến 25cm, dùi gõ Thanh la làm bằng gỗ hoặc tre tiện tròn, dài khoảng 20cm.
Tiu Cảnh – nhạc khí tự thân vang gõ do người Việt Nam chế tác. Tiu cảnh gồm hai chiếc Thanh la cỡ nhỏ làm bằng đồng thau, đường kính khoảng 10cm, một chiếc thành thấp, một chiếc thành cao, với hai âm thanh cao thấp với màu âm thánh thót, âm vang.
Trống Cái được chế tác bằng gỗ có đường kính lớn, được bịt da hai mặt, đường kính khoảng 40cm, 60cm đến dưới 1m. Tang trống cao khoảng 50cm, có 2 đai, có móc treo, mặt trống bằng da trâu hoặc da bò.
 là nhạc khí tự thân vang phổ biến tại Việt Nam, mõ thường được làm bằng gỗ với nhiều kích thước và kiểu dáng khác nhau.

Cung văn

Cung văn là người chuyên hát Chầu văn. Nhiệm vụ đầu tiên của cung văn là hát, nhưng vì mỗi buổi hầu thường kéo dài bốn năm tiếng nên vai trò các nhạc cụ cũng rất quan trọng. Một cung văn nổi tiếng à phải đạt được hai tiêu chuẩn Đàn hay Hát giỏi.
Cung văn thường để phách trước mặt, chiếc cảnh ở bên phải, và dùng ba chiếc que nhỏ để chơi: tay phải cầm que, một que kẹp giữa ngón cái và ngón chỏ, que thứ 2 kẹp giữa ngón giữa và ngón đeo nhân, còn tay trái cầm một que, cả ba cùng chơi một lúc tùy theo nhịp và hát.

Ban Nghiên cứu VHTN phía Nam

 

 

Tags:

Bài viết khác

Nét văn hóa tâm linh trong kiến trúc nhà thờ họ

Kiến trúc nhà thờ họ là biểu tượng vật chất đậm nét văn hóa phi vật thể của các tộc họ ở Việt Nam. Đây là nơi lưu giữ giá trị, tổ chức, quan hệ, và thành tựu của mỗi dòng tộc qua nhiều thế hệ. Theo truyền thống, nhà thờ họ thường được xây dựng theo cấu trúc đơn giản nhưng hài hòa, mang đậm nét riêng của văn hóa dân gian.

Vai trò và ý nghĩa của nhà thờ họ tại Việt Nam

Nhà thờ tổ hay từ đường là một ngôi nhà dành riêng cho việc thờ cúng tổ tiên của một dòng họ hay từng chi họ tính theo phụ hệ (dòng của cha). Nhà thờ họ phổ biến trong văn hóa người Việt tại khu đồng bằng và trung du Bắc Bộ và Trung Bộ.

Tứ quý trong tranh dân gian Đông Hồ

Tranh Tứ quý thuộc loại tứ bình (bốn bức) khổ lớn, vẽ cảnh tứ thời: Xuân, hạ, thu, đông. Mỗi mùa có một loài cây, loài hoa đặc trưng. Mùa xuân: hoa mai, hoa lan, hoa đào. Mùa hạ: hoa sen, hoa hồng, hoa lựu. Mùa thu: hoa cúc, hoa phù dung. Mùa đông: cây trúc, cây thông (tùng).

Cỗ và mâm cỗ truyền thống của người Việt

Mâm cỗ ở mỗi vùng quê Việt Nam có hương vị riêng nhưng bao giờ cũng vậy, mỗi mâm có 4 hoặc 6 người. Thông thường người ta kiêng ngồi 5 người, ở mâm cỗ có ít nhất hai người thân nhau, cũng có khi 3 cặp đều thân nhau thành một cỗ. Người nhà chủ tế nhị mời những người ăn ý với nhau vào một cỗ, sàn sàn lứa tuổi với nhau vào cùng mâm. Những người có tửu lượng mạnh hoặc nhẹ vào một cỗ, những người bằng vai phải lứa với nhau vào một cỗ. Đàn ông vào cỗ với nhau, còn đàn bà ngồi với đàn bà.

Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ Việt Nam

Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều mang trong mình những nét văn hóa riêng. Văn hóa là cái gốc cho sự phát triển, phồn thịnh của một đất nước. Việt Nam là một dân tộc mang một nền văn hóa đậm đà bản sắc, đa dạng và phong phú. Tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam từ lâu đã đóng vai trò quan trọng đối với người dân Việt, văn hóa tín ngưỡng có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống xã hội và tâm thức người dân.

Tín ngưỡng dân gian trong lễ hội cổ truyền ở Việt Nam

Tín ngưỡng dân gian đóng vai trò quan trọng trong các lễ hội cổ truyền của Việt Nam, thể hiện bản sắc văn hóa, tâm linh và lòng tôn kính đối với các thế lực siêu nhiên, Tổ tiên, thần thánh. Bài viết tìm hiểu một số đặc điểm nổi bật về tín ngưỡng dân gian trong các lễ hội cổ truyền của người Việt, đặc biệt, lễ hội liên quan đến tín ngưỡng dân gian như: tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng vạn vật hữu linh, tín ngưỡng thờ Thành hoàng, tín ngưỡng thờ Tổ tiên, tín ngưỡng thờ Mẫu...

Ý nghĩa và mục đích của tục “Bán khoán con lên chùa”

Bán khoán con cho chùa là một tín ngưỡng dân gian, một hình thức gửi gắm về mặt tâm linh. Có hai hình thức bán khoán con lên chùa: Bán khoán đến hết năm 12 tuổi rồi “chuộc” con ra, hoặc là bán khoán trọn đời. Từ xưa đến nay, nhiều gia đình quan niệm, khi sinh con ra, đứa trẻ hay đau yếu, khóc lóc không phải là do bị bệnh từ thân hoặc những đứa trẻ sinh vào giờ kỵ, ngày phạm (tức ngày mùng 1, 5, 8, 15, 23, 24, 28 và ngày 30 Âm lịch).

Mỹ tục Kỳ Yên của người Nam Bộ

Trải qua mấy trăm năm tồn tại, tục thờ Thần đã trở thành văn hóa tín ngưỡng của người dân Nam Bộ. Trong đó, tục Kỳ Yên là cổ lệ lớn nhất, nơi để người dân phương Nam cầu nguyện một cuộc sống no đủ. Từ tháng Giêng cho đến tháng Tư, khi cứ vào độ trăng tròn tỏa sáng là xóm làng khắp Nam Bộ thay nhau rộn ràng thượng lễ Kỳ Yên. Trẻ em xúng xính áo mới, người lớn tươm tất y phục chỉnh tề, tụ hội về đình làng cùng nhau khai hội.
Top