banner 728x90

Những tục lệ trong ma chay của người Việt

06/10/2024 Lượt xem: 3024

Ma chay là phong tục không thể thiếu được ở tất cả các nền văn hóa, quốc gia trên thế giới. Tuy là chung cùng một mục đích là để tưởng nhớ người đã khuất song mỗi nơi lại có cách thể hiện khác nhau. Theo văn hóa ma chay người Việt, khi một người mất tuỳ quan hệ huyết thống và tình nghĩa thân sơ, mà phân ra các mức thọ tang khác nhau để khắc ghi sự thương tiếc.

Trong thời phong kiến luật lệ là cán cân đo chuẩn mực đạo đức của con người, gia đình, dòng tộc, làng xóm. Nên người Việt rất chấp hành những gia lễ của văn hóa ma chay. Nhưng trong cuộc sống bận rộn ngày nay nhiều thứ gia phong quốc pháp đã bị tinh giản và xóa bỏ trong đó có gia lễ trong văn hóa ma chay. Xã hội càng phát triển con người càng xích lại gần nhau, cuộc sống càng văn minh những nếp văn hóa không phù hợp buộc phải thay đổi hoặc xóa bỏ. Vì thế, quy định thời gian thọ tang ở Việt Nam hiện nay đã thay đổi rất nhiều. Khi văn hóa cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy bị dẹp bỏ, đồng nghĩa với việc người phụ nữ phải được giảm bớt thời gian thọ tang để còn tự tìm hạnh phúc cho riêng mình. Từ đó, những người cháu gái chưa chồng thường được giảm bớt thời gian thọ tang đối với ông bà hoặc có khi được linh hoạt xả bỏ việc thọ tang, để không vướng bận trong việc hôn nhân. Những người phụ nữ mất chồng, cũng đã được giảm bớt mức thời gian 3 năm thọ tang nặng nề để không vướng bận trong công việc cũng như tái giá.

Những tục lệ trong ma chay  

Mở cửa mả

Trong ba ngày sau khi mới chôn, gia đình tang gia trở ra mộ làm lễ mở cửa mả để cúng thổ thần. Các thầy cúng dùng lươn, cá chép, một cây mía lao cùng nhiều loại giấy tiền vàng bạc để cúng và yểm bùa và cho rằng làm như thế thì trừ được hung thần không cho quậy phá hồn người chết sau để hồn về nơi thờ cúng trong nhà. Sau khi làm lễ mở cửa mả xong thì các con cái bắt đầu dọn mộ hay xây mộ cho thân nhân tang gia có thể xây mộ mà không cần xem ngày giờ tốt xấu.

Cúng thất tuần và chung thất

Theo phong tục khi người chết đã chôn cất xong gia đình phải làm lễ thất tuần tính ngày người chết mới tắt thở. Các con cái chịu tang phải về đầy đủ mặc lại tang phục và cúng cơm cho người chết, thầy cúng hoặc nhà sư đến tụng niệm, cơm cúng cho người chết đều là những món chay nhằm cho người chết được nhẹ nhàng hồn vía, sớm siêu thăng miền cực lạc và có người còn cho rằng cúng chay là để hồn người chết sớm quy y cửa Phật, nương nhờ cửa Phật mà không về với gia đình. Khi cúng đủ 6 tuần thì đến tuần thứ 7 gọi là lễ chung thất. Thường lễ chung thất và lễ tốt khốc 100 ngày hầu như tất cả các gia đình tổ chức rất lớn, có mời họ hàng, xóm giềng đến dự. Trước là cho một số con cái cháu chắt xả tang vì cho rằng trong 49 ngày qua hồn người chết đã yên ổn ở các nơi khi xả tang có thầy cúng hay nhà sư đến làm phép cho người đó. Sau đó thì  để tỏ lòng cảm tạ với khách mời gia đình sẽ mời họ một bữa cơm thịnh soạn.

Tốt khốc

Một trăm ngày là tuần tốt khốc nghĩa là đến ngày này mới thôi khóc. Gia đình cũng mời họ hàng làng xóm đến chứng kiến và cũng có thủ tục xả tang như lễ chung thất. Và phá bỏ bàn vong và di ảnh được đưa lên bàn thờ nhưng không được cắm chung một bát nhang cùng với tổ tiên.

Đại tường và đàm tế

Sau hai năm giỗ tất gọi là đại tường nếu tính theo năm âm lịch là để tang đã đủ ba năm. Tuy nhiên ngày đại tường này cũng chưa phải đã hết tang chế cho tang gia mà sau đó còn một lễ khác có tên gọi lễ đàm tế. Lễ này còn được gọi là lễ trừ phục sau 60 ngày. Trong ngày lễ tất cả những gì còn gợi lại tang ma đều được đốt bỏ mọi người được xả tang và thôi đau buồn nữa.

Với những hủ tục trong ma chay chúng ta thấy quá nhiều rườm rà và bi thiết. Ở các nước có nền văn minh tiên tiến họ không quàng xác tại nhà quá 48 giờ và không có cảnh đưa ma nào là hình tượng phước thần. Còn ở Việt Nam trong một gia đình nếu như mê tín thì người ta có tục đi tìm đất để chôn, đất phải kết phát tài lộc mới gọi là đắc địa rồi xem ngày chọn giờ mới động quan có khi quàng xác tại nhà đến năm bảy ngày như thế thì hàng xóm láng giềng phiền lòng mà người trong cuộc cũng mệt mỏi và tốn kém. Chúng ta thấy như vậy rất tốn kém vì thế cần bỏ bớt những lễ tục không đáng phải phô trương để cho người chết được yên ổn mà về với cát bụi.

Ban Nghiên cứu VHTN Việt Nam

 

 

Tags:

Bài viết khác

Tết Thanh minh của người Dao

Tết Thanh minh không chỉ là dịp để tưởng nhớ tổ tiên mà còn là một nét văn hóa đặc sắc của nhiều dân tộc thiểu số, trong đó có người Dao Quần Chẹt ở các tỉnh Tuyên Quang, Hòa Bình, Vĩnh Phúc. Đây là dịp để con cháu sum vầy, thể hiện lòng thành kính với bậc tiền nhân, đồng thời lưu giữ những phong tục truyền thống.

Nét văn hóa trong trang phục dân tộc H’mông

Nằm trong một quốc gia đa dân tộc, dân tộc H’mông được coi là một thành viên quan trọng trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Cùng với tiếng nói, chữ viết, trang phục cũng là một trong những chi tiết quan trọng đầu tiên để nhận biết và phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Trang phục truyền thống không chỉ mang đậm bản sắc văn hóa, mà còn chứa đựng những giá trị nghệ thuật, giá trị lịch sử của từng tộc người.

Những tấm dệt đan sắc núi rừng

Giữa sắc thẫm của đại ngàn Trường Sơn, đây đó nổi lên màu trắng của những dải mây vành khăn ở lưng chừng núi, màu đỏ của hoa gạo, hoa chuối, màu xanh của cây cỏ, màu vàng của lá úa rơi rụng, hay màu tím của hoàng hôn, màu của những tia nắng tán sắc cuối chân trời khi chiều muộn… Tất cả đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên mà người Tà Ôi ở không gian sống của chính tộc người mình

Những điều cần biết về tục thờ Linga và Yoni của người Chăm

Tục thờ Linga và Yoni có nguồn gốc từ cộng đồng người sống ở vùng lưu vực sông Ấn, thuộc chủng tộc Sumerian và Dravidan. Tín ngưỡng của họ gắn liền với thần thoại về thần mẹ và sự thờ cúng âm lực, coi sinh thực khí là nguồn gốc của mọi sự sáng tạo.

Các phong tục cần biết khi đến các làng bản của người dân tộc

Đồng bào các dân tộc Bắc Hà nói riêng và Lào Cai nói chung rất hiếu khách, nhưng khi du khách đến thăm làng, bản nên chú ý những điều kiêng kỵ và cần biết một vài phong tục, tập quán sinh hoạt để tiện ứng xử và giao tiếp.

Nhuộm răng đen - Phong tục lâu đời của người Việt

Nhuộm răng đen là một tục lệ lâu đời, xuất hiện từ thời Hùng Vương, tồn tại suốt mấy ngàn năm trong lịch sử văn hóa của người Việt. Đây vốn là phong tục cổ truyền không chỉ của cư dân người Việt mà còn tồn tại ở cộng đồng các dân tộc như Thái, Mường, Dao, Lự, Si La,…Trong cộng đồng người Việt, tục nhuộm răng đen chủ yếu chỉ phổ biến ở khu vực miền Bắc và miền Trung, còn ở miền Nam không thấy dấu vết của phong tục này.

Thala – nét đẹp văn hóa cộng đồng của người Khmer

Trên đường vào các phum, sóc của đồng bào Khmer Nam Bộ, đi khoảng một vài cây số, ta dễ dàng bắt gặp những ngôi nhà từ vài mét đến vài chục mét vuông, nép dưới bóng chùa hay bóng cây. Đó là các điểm dừng, nghỉ cho khách đi đường, do bà con dân tộc Khmer xây dựng. Tiếng Khmer gọi đó là các “Thala” (Schla).

Nghề làm cốm dẹp truyền thống của người Khmer (Sóc Trăng)

Cốm dẹp là một món ăn đặc sản nổi tiếng của vùng Sóc Trăng, không chỉ là biểu tượng văn hóa đặc trưng của địa phương mà còn gắn liền với đời sống văn hóa, tinh thần của đồng bào dân tộc Khmer Nam Bộ. Món ăn này không chỉ được sử dụng trong những bữa ăn hàng ngày mà còn là một phần không thể thiếu trong các dịp lễ quan trọng, đặc biệt là Lễ cúng Trăng - một sự kiện tôn giáo quan trọng của người Khmer.
Top