banner 728x90

Nghệ thuật múa rom vong của người Khmer là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia

22/05/2024 Lượt xem: 2767

Nghệ thuật múa rom vong là món ăn tinh thần độc đáo không thể thiếu trong các dịp lễ, Tết, sinh hoạt văn hóa của đồng bào dân tộc Khmer.

Đối với dân tộc Khmer, nghệ thuật múa rom vong là sản phẩm văn hóa vừa mang tính thiêng, vừa là nhu cầu tinh thần sau những giờ lao động, luôn được bảo tồn và phát huy.

 

Điệu múa rom vong của người Khmer

Múa rom vong như một sự giao thoa giữa con người với thiên nhiên, hòa quyện trong đời sống của nhân dân. Từ trẻ con, người lớn đến các cụ già đều biết múa và ai cũng thích múa. Khi vui, khởi đầu một sự việc, công việc nào đó hay cúng tế, tạ ơn thì họ cũng múa.

Trải qua quá trình dài trao truyền, sáng tạo và chắt lọc, múa rom vong trở thành môn nghệ thuật dân gian phản ánh đậm nét đời sống, tín ngưỡng của đồng bào Khmer Nam bộ. Nghệ thuật múa dân gian rom vong của người Khmer Nam bộ không chỉ có ý nghĩa mang lại nhu cầu vui chơi, giải trí thụ hưởng văn hóa với người dân Khmer, nó còn là sợi dây kết nối cộng đồng, giúp mọi người giao lưu, đoàn kết, gắn bó nhau hơn trong cuộc sống.

Vào những dịp diễn ra các lễ hội, hay các hoạt động cộng đồng, không chỉ có đồng bào Khmer múa mà cả các dân tộc anh em khác như người Kinh, Hoa, Ba Na, M’ Nông, Gia Rai… cùng hòa mình vào điệu múa dân gian tươi vui này, thể hiện sự lan tỏa văn hóa, khả năng thu hút của điệu múa với tất cả mọi người.

Đối với đồng bào dân tộc Khmer, múa rom vong được sử dụng như phương tiện thể hiện sắc thái văn hóa trong giao tiếp, giao lưu và phát triển văn hóa, nghệ thuật với các dân tộc anh em trong cộng đồng văn hóa các dân tộc Việt Nam, thân thiết, hòa quyện, đoàn kết, ấm áp nghĩa tình.

Nhạc cụ đặc trưng của dân tộc Khmer

Múa rom vong chiếm một vị trí quan trọng trong các cuộc sinh hoạt tập thể, gắn với cuộc sống đời thường. Không chỉ bó hẹp trong không gian diễn cộng đồng, múa rom vong còn gắn với không gian cung đình, thể hiện qua việc được đồng bào Khmer sử dụng múa trong các lễ hội truyền thống như Chol Chnăm Thmây, Sen Dolta, Ok Om Bok, các nghi lễ tín ngưỡng cổ truyền như lễ tế thần linh, lễ rước thần, lễ cầu an, lễ Arăk. Đi kèm với múa rom vong là những nhạc cụ đặc trưng của dân tộc Khmer như trống sadam, chiêng, dàn nhạc ngũ âm.

Vào các dịp lễ hội truyền thống của đồng bào Khmer, từ người trẻ đến người lớn tuổi tham gia múa, hát rom vong thật vui nhộn, được thể hiện qua sự phối hợp nhịp nhàng, sinh động của các động tác tay chân theo từng điệu nhạc. Các điệu múa có thể múa thành vòng tròn và không giới hạn số người tham gia.

Múa rom vong vui nhộn, dung dị nhưng không kém phần dịu dàng, người múa có sự phối hợp giữa các động tác tay, chân kết hợp toàn thân uyển chuyển, nhịp nhàng theo từng điệu nhạc, thu hút người tham gia. Khi múa, thường người múa di chuyển vòng tròn, theo nhịp 2/4. Khi nhịp trống và giọng hát say sưa vang lên theo điệu rom vong, từng đôi trai gái hoặc từng người bước đều 3 bước và lui một bước, hai tay để trước ngực, các ngón tay thẳng đứng và cong lên như cánh những đóa tươi, một tay đưa lên, tay kia đưa xuống nhịp nhàng theo tiếng nhạc…

Nam nữ dân tộc Khmer hòa mình vào điệu múa lâm thôn rất mềm mại và duyên dáng

Các động tác chính trong múa rom vong có tay khuôn, tay che, tay chỉ, tay nhận, tay bông hoa cùng các động tác khác, mỗi động tác biểu cảm về một bối cảnh trong cuộc sống thường nhật, mang những sắc thái tươi tắn, vui tươi, lạc quan, phản ánh những giá trị nhân văn tốt đẹp.

Bên cạnh đó, múa rom vong phải tuân theo một số quy tắc nhất định như: Người ít tuổi, địa vị thấp hơn sẽ ra múa trước, sau đó mới tiến đến mời các vị quan khách, người cao tuổi ra múa giao lưu. Đội hình múa di chuyển càng nhiều vòng càng vui. Rồi cả người Khmer và các vị khách mời người Kinh, người Hoa... cùng nhau vui vẻ, động tác múa càng nhanh hơn theo nhịp trống. Khi trống ngừng, mọi người cùng dừng lại chắp tay chào nhau rồi trở về vị trí cũ.

Hình thành trong lao động sản xuất nông nghiệp và gần gũi với tất cả giai tầng trong xã hội, nên múa rom vong đã ăn sâu vào tiềm thức của đồng bào dân tộc Khmer qua nhiều thế hệ. Vào những dịp diễn ra lễ hội, không chỉ đồng bào Khmer múa mà đồng bào các dân tộc cùng hòa mình vào điệu múa vui nhộn này, thể hiện sự lan tỏa văn hóa, thu hút của điệu múa với tất cả mọi người. Thông qua điệu múa rom vong, tình cảm giữa người với người trong cộng đồng càng thêm tốt đẹp gắn kết.

Ban Nghiên cứu Văn hóa

 

Tags:

Bài viết khác

Di tích Lịch sử - Văn hóa là gì? Tiêu chí, phân loại di tích lịch sử văn hóa

Di tích Lịch sử - Văn hóa là công trình xây dựng, địa điểm, hiện vật, di vật, đồ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm có liên quan đến những sự kiện lịch sử, quá trình phát triển văn hoá, xã hội một dân tộc, một đất nước. Di tích lịch sử - văn hoá phải có một trong các tiêu chí sau:

Những nhạc cụ “thổi hồn” cho Di sản Văn hóa hát Then

Hát Then trong đời sống, văn hoá tín ngưỡng, tâm linh của đồng bào Tày, Nùng, Thái vùng cao phía Bắc được ví là "điệu hát thần tiên", điệu hát của “Trời”. Nghệ thuật diễn xướng dân gian này ẩn chứa và phô diễn những giá trị lịch sử, văn hóa lâu đời. Trong hát Then, đàn Tính và chùm Xóc Nhạc là hai loại nhạc cụ không thể thiếu. Hai loại nhạc cụ này vừa có chức năng giữ nhịp, đệm cho hát, vừa có khả năng diễn tấu linh hoạt, đặc biệt còn được sử dụng như đạo cụ trong những điệu múa Then.

Điều kiện di tích lịch sử văn hóa được xếp loại là di tích quốc gia

Theo quy định tại Điều 29 Luật Di sản văn hóa năm 2001, được sửa đổi bởi khoản 10 Điều 1 Luật Di sản văn hóa sửa đổi năm 2009, việc phân loại di tích lịch sử và văn hóa phải dựa trên những điều kiện về giá trị lịch sử và văn hóa. Các điều kiện này được quy định rõ ràng nhằm xác định và bảo vệ các di tích có giá trị quan trọng đối với quốc gia và dân tộc. Cụ thể, các di tích được phân loại dựa trên bốn điều kiện cơ bản:

Thủ tục xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia

Di tích lịch sử Việt Nam đã được phân thành ba cấp khác nhau, nhằm phản ánh giá trị lịch sử, văn hoá và khoa học của chúng. Đây là một dạng di sản văn hoá vật thể, bao gồm các công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình hoặc địa điểm đó.

Phân cấp, phân quyền trong quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa

Ở Việt Nam, vấn đề phân cấp là một nhiệm vụ chính trị quan trọng của quá trình cải cách nền hành chính nhà nước. Phân cấp quản lý có thể hiểu là vấn đề chuyển giao nhiệm vụ, quyền hạn rõ ràng giữa các cơ quan nhà nước, các bạn ngành Trung ương và địa phương. Theo Từ điển Luật học, phân cấp quản lý được định nghĩa là “Chuyển giao nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý nhà nước cấp trên cho cơ quan quản lý nhà nước cấp dưới thực hiện thường xuyên, lâu dài, ổn định trên cơ sở pháp luật…

Lễ Hội Hoa Ban: Nét đẹp văn hóa vùng núi Tây Bắc Việt Nam

Lễ hội Hoa Ban là một trong những sự kiện văn hóa đặc sắc của Việt Nam, phản ánh sự hòa quyện giữa thiên nhiên và con người, giữa các giá trị truyền thống và sự phát triển hiện đại. Với vẻ đẹp thuần khiết của hoa ban, cùng với những hoạt động văn hóa phong phú, lễ hội Hoa Ban hứa hẹn sẽ tiếp tục là một điểm đến hấp dẫn của du khách trong và ngoài nước.

Quản lý nhà nước về di sản văn hóa phi vật thể

Quản lý nhà nước với tính chất là một hoạt động quản lý xã hội. Quản lý nhà nước được thực hiện bởi tất cả các cơ quan nhà nước, là hoạt động chấp hành và điều hành có tính tổ chức chặt chẽ, được thực hiện trên cơ sở pháp luật, được bảo đảm thực hiện bởi hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước.

Mối quan hệ giữa các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể

Sự tập trung vào di sản văn hóa vật thể trong luật pháp và chính sách thường phải trả giá cho những mối quan hệ liên kết và không thể tách rời của các yếu tố vật thể và phi vật thể. Chẳng hạn, đối với việc xây dựng một ngôi nhà và bảo vệ một hiện vật nghi lễ cụ thể thì dễ dàng hơn nhiều so với việc nhận biết và nhận diện một ý tưởng, hay một hệ thống tri thức. Với di sản văn hóa vật thể, một cách dễ dàng hơn để nhận biết cái mất đi, hay sẽ bị hư hỏng.
Top