banner 728x90

Nghề làm bột gạo Sa Đéc: Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia

11/06/2024 Lượt xem: 2541

Nhiều sản phẩm làm từ bột đã đạt chuẩn của Chương trình mỗi xã/phường 1 sản phẩm (OCOP) 4 sao.

Không chỉ được biết đến là thủ phủ hoa của miền Tây, thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp, còn nức tiếng gần xa với nghề làm bột gạo truyền thống có tuổi đời hơn 100 năm. Nguồn nước ngọt quanh năm, cùng điều kiện thổ nhưỡng, thời tiết phù hợp, đã tạo nên những hạt gạo để cho ra loại bột gạo Sa Đéc mang chất lượng vượt trội, hương vị đặc trưng.

Vào thế kỷ XVIII, nhiều người dân từ miền Bắc, miền Trung vào Nam lập nghiệp và hòa nhập với vùng đất Sa Đéc trù phú. Với ý thức tiết kiệm, phòng bị lương thực cho mùa mưa lũ, nên người người, nhà nhà đã tìm cách để giữ lương thực được lâu dài, từ hạt lúa làm ra hạt gạo, rồi từ hạt gạo đó làm ra bột gạo.  Đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, xóm bột Tân Phú Đông trở thành một trong những nơi làm bột và sản phẩm từ bột danh tiếng nhất vùng. Bột gạo Sa Đéc nức tiếng gần xa bởi độ trắng, mịn, dẻo, thơm mà khó có nơi nào sánh kịp. Để có được điều này, theo chia sẻ của các cụ thâm niên trong nghề, Sa Đéc là vùng đất được thiên nhiên ưu đãi, với vị trí địa lý nằm giữa hai dòng sông Tiền và sông Hậu, đặc biệt đoạn sông Tiền khi chảy vào Sa Đéc đã tạo thành dòng Sa Giang mang độ pH trung tính, không bị chua do phèn, không bị lợ do nhiễm mặn. Chính nhờ dòng nước sông ngọt lành này, khi kết hợp với hạt gạo của Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) phì nhiêu đã tạo nên thương hiệu cho bột gạo Sa Đéc ngày nay.

Ông Nguyễn Văn Nương, chủ cơ sở sản xuất bột Tư Nương, Chủ nhiệm hội quán làng bột Sa Đéc, chia sẻ gia đình ông đã có hơn 100 năm theo nghề. Từ ông nội, đến cha ông và bây giờ là ông tiếp tục giữ gìn và phát triển nghề: "Tôi và các con của tôi cùng quyết tâm giữ gìn và phát huy truyền thống nghề làm bột mà cha, ông đã để lại. Tất cả các bà con trong hội quán làng bột Sa Đéc đều xác định trách nhiệm, phát triển nghề làm bột hơn nữa. Cùng với đó, là đảm bảo an toàn thực phẩm và bảo vệ môi trường".

Công cụ làm ra bột gạo Sa Đéc

Theo dòng thời gian, nghề làm bột gạo Sa Đéc cũng có nhiều biến động nhưng nghề này đã giúp gia đình ông Tư Nương và nhiều hộ ở làng bột Sa Đéc ổn định cuộc sống, nhiều hộ còn có của ăn, của để. Trước đây, người dân làm bột chủ yếu làm bằng thủ công. Để có sản phẩm bột gạo người làm bột phải tốn rất nhiều thời gian, công sức và nhiều công đoạn, như: Lựa chọn tấm (gạo), làm sạch tấm (gạo), xay tấm (gạo), dằn bột, đánh tơi bột, lắng gạn, hớt bột, chia bột và bẻ bột, phơi bột, đóng gói thành phẩm… Để phát triển nghề, người làm bột ở Sa Đéc đã mạnh dạn đầu tư máy móc vào sản xuất, từ máy vo, máy nghiền, thiết kế giàn ép bột tươi đến hệ thống bồn lắng, hệ thống bơm, hút phụ phẩm. Việc này tạo nên bước ngoặt mới cho nghề làm bột, giảm được công lao động, vừa hạ giá thành sản phẩm lại đảm bảo được chất lượng sạch, tuyệt trùng.

Làm bột gạo tươi tại một cơ sở sản xuất ở phường 2, thành phố Sa Đéc.

Hiện nay, Sa Đéc có trên 160 hộ, cơ sở sản xuất bột, với hơn 1.000 lao động. Sản lượng bình quân trên 30.000 tấn bột/năm. Nhiều sản phẩm làm từ bột đã đạt chuẩn của Chương trình mỗi xã/phường 1 sản phẩm (OCOP) 4 sao, như: Bột gạo lứt lúa mạch hạt sen, bánh hỏi khô, bột bánh xèo cốt dừa, nui gạo, bún gạo lứt, hủ tiếu gạo lứt, phở gạo lứt, hủ tiếu khô, phở khô. Những sản phẩm này đã có mặt tại các hệ thống siêu thị, trung tâm thương mại, các chuỗi siêu thị, cửa hàng phân phối lớn nhỏ ở thị trường trong nước và quốc tế. Ngày 26/4 vừa qua, Bộ văn hóa, thể thao và du lịch đã trao bằng Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia nghề thủ công truyền thống, Tri thức dân gian “Nghề làm bột gạo Sa Đéc”. Bà Võ Thị Bình, Phó chủ tịch UBND thành phố Sa Đéc, cho biết: "Trong thời gian tới, Thành phố Sa Đéc để đẩy mạnh quảng bá hình ảnh của làng nghề khi được công nhận là di sản phi vật thể. Từ đó, nâng tầm làng nghề, vừa là nghề truyền thống những đã đổi mới, áp dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất. Đặc biệt, thành phố cùng người dân đưa sản phẩm vươn xa, đi xa hơn".

Theo Đề án phát triển Làng nghề bột Sa Đéc tầm nhìn đến năm 2030, địa phương sẽ tiếp tục hình thành và phát triển kinh tế hợp tác, liên kết sản xuất, tiêu thụ; xây dựng mô hình phát triển du lịch cộng đồng và trải nghiệm dựa trên điểm nhấn chính là kết hợp Làng nghề truyền thống sản xuất bột và Làng hoa Sa Đéc. Việc kết hợp hai làng nghề truyền thống góp phần thu hút khách du lịch, quảng bá hình ảnh, giới thiệu nét văn hóa độc đáo cũng như thúc đẩy phát triển kinh tế cho địa phương.

Hơn 100 năm hình thành và phát triển, nghề làm bột ở Sa Đéc không ngừng được cải tiến về nhiều mặt. Các bí quyết gia truyền, kỹ thuật truyền thống của gia đình, kết hợp với ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật, công nghệ tiếp sức cho sự trường tồn của nghề làm bột gạo Sa Đéc.

Theo vov.vn

 

Tags:

Bài viết khác

Di tích Lịch sử - Văn hóa là gì? Tiêu chí, phân loại di tích lịch sử văn hóa

Di tích Lịch sử - Văn hóa là công trình xây dựng, địa điểm, hiện vật, di vật, đồ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm có liên quan đến những sự kiện lịch sử, quá trình phát triển văn hoá, xã hội một dân tộc, một đất nước. Di tích lịch sử - văn hoá phải có một trong các tiêu chí sau:

Những nhạc cụ “thổi hồn” cho Di sản Văn hóa hát Then

Hát Then trong đời sống, văn hoá tín ngưỡng, tâm linh của đồng bào Tày, Nùng, Thái vùng cao phía Bắc được ví là "điệu hát thần tiên", điệu hát của “Trời”. Nghệ thuật diễn xướng dân gian này ẩn chứa và phô diễn những giá trị lịch sử, văn hóa lâu đời. Trong hát Then, đàn Tính và chùm Xóc Nhạc là hai loại nhạc cụ không thể thiếu. Hai loại nhạc cụ này vừa có chức năng giữ nhịp, đệm cho hát, vừa có khả năng diễn tấu linh hoạt, đặc biệt còn được sử dụng như đạo cụ trong những điệu múa Then.

Điều kiện di tích lịch sử văn hóa được xếp loại là di tích quốc gia

Theo quy định tại Điều 29 Luật Di sản văn hóa năm 2001, được sửa đổi bởi khoản 10 Điều 1 Luật Di sản văn hóa sửa đổi năm 2009, việc phân loại di tích lịch sử và văn hóa phải dựa trên những điều kiện về giá trị lịch sử và văn hóa. Các điều kiện này được quy định rõ ràng nhằm xác định và bảo vệ các di tích có giá trị quan trọng đối với quốc gia và dân tộc. Cụ thể, các di tích được phân loại dựa trên bốn điều kiện cơ bản:

Thủ tục xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia

Di tích lịch sử Việt Nam đã được phân thành ba cấp khác nhau, nhằm phản ánh giá trị lịch sử, văn hoá và khoa học của chúng. Đây là một dạng di sản văn hoá vật thể, bao gồm các công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình hoặc địa điểm đó.

Phân cấp, phân quyền trong quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa

Ở Việt Nam, vấn đề phân cấp là một nhiệm vụ chính trị quan trọng của quá trình cải cách nền hành chính nhà nước. Phân cấp quản lý có thể hiểu là vấn đề chuyển giao nhiệm vụ, quyền hạn rõ ràng giữa các cơ quan nhà nước, các bạn ngành Trung ương và địa phương. Theo Từ điển Luật học, phân cấp quản lý được định nghĩa là “Chuyển giao nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý nhà nước cấp trên cho cơ quan quản lý nhà nước cấp dưới thực hiện thường xuyên, lâu dài, ổn định trên cơ sở pháp luật…

Lễ Hội Hoa Ban: Nét đẹp văn hóa vùng núi Tây Bắc Việt Nam

Lễ hội Hoa Ban là một trong những sự kiện văn hóa đặc sắc của Việt Nam, phản ánh sự hòa quyện giữa thiên nhiên và con người, giữa các giá trị truyền thống và sự phát triển hiện đại. Với vẻ đẹp thuần khiết của hoa ban, cùng với những hoạt động văn hóa phong phú, lễ hội Hoa Ban hứa hẹn sẽ tiếp tục là một điểm đến hấp dẫn của du khách trong và ngoài nước.

Quản lý nhà nước về di sản văn hóa phi vật thể

Quản lý nhà nước với tính chất là một hoạt động quản lý xã hội. Quản lý nhà nước được thực hiện bởi tất cả các cơ quan nhà nước, là hoạt động chấp hành và điều hành có tính tổ chức chặt chẽ, được thực hiện trên cơ sở pháp luật, được bảo đảm thực hiện bởi hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước.

Mối quan hệ giữa các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể

Sự tập trung vào di sản văn hóa vật thể trong luật pháp và chính sách thường phải trả giá cho những mối quan hệ liên kết và không thể tách rời của các yếu tố vật thể và phi vật thể. Chẳng hạn, đối với việc xây dựng một ngôi nhà và bảo vệ một hiện vật nghi lễ cụ thể thì dễ dàng hơn nhiều so với việc nhận biết và nhận diện một ý tưởng, hay một hệ thống tri thức. Với di sản văn hóa vật thể, một cách dễ dàng hơn để nhận biết cái mất đi, hay sẽ bị hư hỏng.
Top