banner 728x90

Lễ cúng bản của đồng bào Khơ Mú

14/04/2025 Lượt xem: 2383

Lễ cúng bản là một trong những nghi lễ truyền thống quan trọng của dân tộc Khơ Mú ở xã Huổi Một, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La. Lễ cúng bản thường được tổ chức vào đầu năm hoặc sau mỗi mùa vụ để cầu mong bình an, mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu và bản làng yên ổn. Đây không chỉ là một nghi lễ tâm linh mà còn là dịp để cộng đồng gắn kết, thể hiện lòng biết ơn với thần linh và tổ tiên.

Lễ cúng bản là một trong những nghi lễ truyền thống quan trọng của dân tộc Khơ Mú

Lễ cúng bản (còn gọi là "xên bản") là nghi lễ truyền thống của dân tộc Khơ Mú được tổ chức vào khoảng tháng 3 – 4 dương lịch. Lễ cúng bản có từ xa xưa, đã tồn tại trong tâm thức người Khơ Mú và được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác; Lễ cúng bản là một trong những nghi lễ đặc trưng, tiêu biểu trong văn hóa truyền thống của dân tộc Khơ Mú.

Lễ cúng bản diễn ra với mục đích cầu mong các vị thần linh, trời đất phù hộ cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, vạn vật sinh sôi, con người khỏe mạnh, cầu cho bản mường ấm no, nhà nhà hạnh phúc; Đồng thời qua nghi lễ thể hiện được tinh thần lạc quan của con người, niềm tin vào cuộc sống, niềm tin vào thiên nhiên, đồng thời đề cao giá trị nhân văn và tính cố kết cộng đồng, bản mường.

Lễ cúng bản được tổ chức thường niên mỗi năm một lần, lễ diễn ra trong một ngày, sau khi gieo trồng cây lúa lên cao bằng gang tay thì người Khơ Mú tiến hành làm lễ.

Lễ cúng bản thường do già làng hoặc thầy mo chủ trì. Địa điểm tổ chức thường là khu đất linh thiêng – nơi có cây cổ thụ hoặc gần đầu nguồn nước. Lễ vật cúng bao gồm gà, lợn, rượu cần, xôi, bánh và các sản vật địa phương. Trước lễ chính, người dân kiêng kị không gây gổ, không làm ồn, và tránh làm ô uế khu vực cúng.

Lễ được chia thành hai phần chính: phần lễ và phần hội. Trong phần lễ, thầy cúng thay mặt dân làng dâng lễ vật, đọc lời khấn, cầu xin thần linh phù hộ. Phần hội diễn ra sau đó với các trò chơi dân gian, múa hát, uống rượu cần và giao lưu giữa các gia đình, bản làng.

Lễ cúng bản không chỉ là một nghi lễ mang tính tâm linh, mà còn là biểu tượng của sự gắn bó giữa con người với thiên nhiên, giữa cá nhân với cộng đồng. Đây là dịp để giáo dục thế hệ trẻ về đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, ý thức bảo vệ rừng, giữ gìn phong tục tập quán và sự cố kết cộng đồng, vạn vật sinh sôi, con người khỏe mạnh, cầu cho bản mường ấm no, nhà nhà hạnh phúc.

Hiện nay, trước sự tác động của quá trình hiện đại hóa, nhiều nét văn hóa truyền thống đang dần mai một. Vì vậy, việc bảo tồn và phát huy giá trị lễ cúng bản nói riêng và văn hóa Khơ Mú nói chung là vô cùng cần thiết. Nhiều địa phương đã đưa lễ cúng bản vào các chương trình phục dựng, phát triển du lịch cộng đồng gắn với bảo tồn văn hóa dân tộc.

Một số hình ảnh ghi lại từ Lễ cúng bản của người Khơ Mú diễn ra ở Huổi Một:

Lễ cúng bản diễn ra với mục đích cầu mong các vị thần linh, trời đất phù hộ cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, vạn vật sinh sôi, con người khỏe mạnh

Địa điểm tổ chức thường là khu đất linh thiêng – nơi có cây cổ thụ hoặc gần đầu nguồn nước

Trong phần lễ, thầy cúng thay mặt dân làng dâng lễ vật, đọc lời khấn, cầu xin thần linh phù hộ

Sau khi làm xong nghi lễ chính ở ngoài trời, thầy cúng sẽ làm lễ tại bàn thờ tổ tiên để báo tổ tiên con cháu đã hoàn thành công việc mời ma làng và các thần linh về dự lễ

Sau phần lễ trang nghiêm là phần hội sôi nổi, nơi cả bản cùng hòa mình vào không khí vui tươi

Nguồn: Báo Dân tộc và Phát triển

 

 

Tags:

Bài viết khác

Cần giữ gìn nét đẹp Lễ cúng sức khỏe của người Ê Đê

Đồng bào dân tộc Ê Đê ở tỉnh Đắk Lắk có nền văn hóa truyền thống đa dạng, phong phú với những lễ hội, phong tục, tập quán độc đáo. Trong đó, Lễ cúng sức khỏe là một nghi thức quan trọng, thể hiện sự tôn kính và hiếu thảo của con cháu đối với ông bà, cha mẹ. Lễ cúng sức khỏe không chỉ là dịp để người Ê Đê bày tỏ lòng thành kính với tổ tiên mà còn là cơ hội để các thành viên trong gia đình, cộng đồng tụ họp, thăm hỏi, chia sẻ niềm vui và cầu chúc cho nhau sức khỏe, hạnh phúc.

Một số nét văn hóa tiêu biểu của dân tộc Kinh

Dân tộc Kinh có những nét văn hòa đa dạng, phong phú, vô cùng đặc sắc và có nền ẩm thực độc đáo, chứa đựng mọi tinh hoa của dân tộc.

Rượu gạo – Nét đẹp văn hóa truyền thống của người Việt Nam

Rượu gạo Việt Nam hay còn gọi là rượu trắng, là một nét đặc trưng của văn hóa và ẩm thực đất nước, được chưng cất từ nguồn gạo phong phú mà đất đai này ban tặng. Rượu thường được sản xuất tại các xưởng gia đình, rượu gạo không chỉ mang lại hương vị đặc trưng mà còn là biểu tượng của sự gắn kết và chia sẻ trong cộng đồng.

Nét độc đáo trong trang phục truyền thống của người Khmer

Việt Nam có 54 dân tộc cùng sinh sống và mỗi dẫn tộc đều có trang phục truyền thống riêng. Tuy nhiên trang phục dân tộc Khmer có lẽ được xem là nổi bật và cầu kỳ nhất, đặc biệt trang phục truyền thống của phụ nữ Khmer Nam bộ mang nét duyên, nét độc đáo không thể lẫn lộn với bất kỳ một trang phục nào khác.

Độc đáo tục rước dâu của người Dao Thanh Y ở Bình Liêu (Quảng Ninh)

Lễ cưới của người Dao Thanh Y ở Bình Liêu (Quảng Ninh) không chỉ là một nghi thức quan trọng trong đời sống hôn nhân, mà còn mang đậm dấu ấn văn hóa truyền thống với nhiều phong tục đặc sắc hiếm thấy ở các dân tộc khác. Trong đó, Lễ rước dâu là phần đặc biệt nhất, thể hiện sự giao thoa giữa tín ngưỡng, phong tục và tinh thần cộng đồng.

Tết Thanh minh của người Dao

Tết Thanh minh không chỉ là dịp để tưởng nhớ tổ tiên mà còn là một nét văn hóa đặc sắc của nhiều dân tộc thiểu số, trong đó có người Dao Quần Chẹt ở các tỉnh Tuyên Quang, Hòa Bình, Vĩnh Phúc. Đây là dịp để con cháu sum vầy, thể hiện lòng thành kính với bậc tiền nhân, đồng thời lưu giữ những phong tục truyền thống.

Nét văn hóa trong trang phục dân tộc H’mông

Nằm trong một quốc gia đa dân tộc, dân tộc H’mông được coi là một thành viên quan trọng trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Cùng với tiếng nói, chữ viết, trang phục cũng là một trong những chi tiết quan trọng đầu tiên để nhận biết và phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Trang phục truyền thống không chỉ mang đậm bản sắc văn hóa, mà còn chứa đựng những giá trị nghệ thuật, giá trị lịch sử của từng tộc người.

Những tấm dệt đan sắc núi rừng

Giữa sắc thẫm của đại ngàn Trường Sơn, đây đó nổi lên màu trắng của những dải mây vành khăn ở lưng chừng núi, màu đỏ của hoa gạo, hoa chuối, màu xanh của cây cỏ, màu vàng của lá úa rơi rụng, hay màu tím của hoàng hôn, màu của những tia nắng tán sắc cuối chân trời khi chiều muộn… Tất cả đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên mà người Tà Ôi ở không gian sống của chính tộc người mình
Top