banner 728x90

Làng truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số ở Kon Tum

27/02/2025 Lượt xem: 2394

Tỉnh Kon Tum có 7 dân tộc tại chỗ, gồm: Ba Na, Gia Rai, Gié Triêng, Xơ Đăng, Brâu, Rơ Măm và Hrê. Đối với các dân tộc tại chỗ, làng có ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống của họ. Theo thời gian, không gian của các làng đã có sự thay đổi nhưng nhìn chung vẫn còn giữ những nét riêng biệt vốn có, tạo nên một không gian văn hóa độc đáo.

Mỗi làng của đồng bào dân tộc thiểu số là một đơn vị cộng cư thống nhất, được thiết lập chủ yếu dựa trên các mối quan hệ cơ bản về huyết thống, cùng thành phần dân tộc

Trong xã hội cổ truyền của dân tộc tại chỗ ở Kon Tum chỉ tồn tại duy nhất một tổ chức xã hội đó là làng. Mỗi làng là một đơn vị cộng cư thống nhất, được thiết lập chủ yếu dựa trên các mối quan hệ cơ bản về huyết thống, hôn nhân, cùng thành phần dân tộc, có cùng quyền lợi và cùng chia sẻ trách nhiệm. Trước đây, việc chọn vị trí lập làng là việc hệ trọng của cả cộng đồng, nên khi chọn vị trí để lập làng mới bao giờ cũng được xem xét kỹ lưỡng các điều kiện có liên quan thiết yếu đến đời sống trực tiếp cộng đồng.

Ông A Jar, làng Plei Đôn, phường Quang Trung, Tp. Kon Tum là người có nhiều năm nghiên cứu, sưu tầm về văn hóa của các dân tộc tại Kon Tum cho biết: Ngày xưa, khi tìm vị trí để lập làng thì điều kiện trước tiên là phải có nguồn nước. Vị trí làng thường được chọn ở nơi cao ráo, thoáng, đất bằng phẳng, dễ di chuyển, nhằm bảo vệ dân làng trước sự đe dọa của kẻ thù từ bên ngoài và thú dữ. Mỗi dân tộc có cách chọn vị trí lập riêng, phù hợp với điều kiện văn hóa, như dân tộc Ba Na và Gia Rai thường chọn vị trí lập làng ở những khu vực gần sông, suối; dân tộc Xơ Đăng chọn vị trí lập làng ở lưng chừng đồi, núi.

Người Ba Na thường chọn vị trí gần các con sông, suối để lập làng

Tên làng của đồng bào dân tộc thiểu số ở Kon Tum cũng có nét độc đáo riêng, thường được lấy theo tên một loài cây có nghĩa đặc trưng gắn liền với nơi cư trú; gắn với nguồn nước, thường là suối, hồ, ao; xuất phát từ một câu chuyện mang tính huyền thoại hoặc một truyền thuyết.

Ông A Jar cho hay: Tên của làng gắn bó máu thịt với mỗi con người và cả cộng đồng, không dễ dàng mất đi. Vì vậy, khi tách ra thành lập làng mới, nhưng cái tên làng cũ vẫn được giữ và thêm vào đó một thành tố nào đó mang đặc điểm của làng mới, chẳng hạn như làng Kon Mơ Nay được tách ra thêm một làng nữa gọi là làng Kon Mơ Nay Sơ Lam; chẳng hạn làng Kon Hngo là sống bên suối nhưng mà xung quanh có rất nhiều cây thông, cây thông tên gọi là Hngo.

Nhà rông của người Gié Triêng ở làng Đăk Wâk, xã Đăk Kroong, huyện Đăk Glei vẫn giữ được nét nguyên bản ngày xưa

Theo tâm niệm của đồng bào các dân tộc thiểu số đã có làng là phải có nhà rông. Làng nào không có nhà rông thì làng đó thiếu sức sống cội nguồn. Nhà rông bao quát mọi tinh hoa văn hóa sáng tạo của con người trong môi trường sinh thái tự nhiên, vừa hùng vĩ vừa tiềm ẩn những yếu tố tâm linh, là biểu hiện của văn hóa rừng và sự cố kết cộng đồng người gắn với thiên nhiên. Về kiến trúc thì nhà rông của mỗi dân tộc có sự khác nhau, theo tập quán của từng dân tộc, nhưng nếu nói về quy mô to cao thì phải kể đến nhà rông của dân tộc Ba Na, Gia Rai, Xơ Đăng, Gié Triêng.

Già làng A Thông (dân tộc Gié Triêng), làng Đăk Wâk, xã Đăk Kroong, huyện Đăk Glei cho biết: Nhà rông hùng vĩ vươn lên bầu trời với hình dáng như một lưỡi rìu khổng lồ biểu hiện sức mạnh của một cộng đồng làng, thể hiện tinh thần thượng võ, đầy quyền uy, như là chế ngự không gian và thời gian để khẳng định chủ quyền, lãnh địa của làng. Thường thì vị trí của nhà rông bao giờ cũng nằm hài hòa với các ngôi nhà ở xung quanh, phía trước có khoảng sân rộng để tổ chức các lễ hội dân gian truyền thống và sinh hoạt cộng đồng.

Với sự quan tâm của chính quyền địa phương, nhiều làng đồng bào DTTS ở tỉnh Kon Tum đã làm du lịch cộng đồng

Ngày nay, trong quá trình hội nhập và phát triển, các làng đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Kon Tum không còn giữ được nét nguyên sơ như trước đây. Nhưng hiện hữu trong mỗi làng vẫn còn đó những giá trị văn hóa độc đáo và đặc sắc mà mỗi người, mỗi nhà đều gìn giữ, xem đó như là món ăn tinh thần, là văn hóa truyền thống để tiếp tục gìn giữ và phát huy cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội phát triển như hiện nay.

Nhiều làng đã được công nhận là làng du lịch cộng đồng, như: Làng Kon Kơ Tu, làng Kon Jơ Ri, xã Đăk Rơ Wa, Tp. Kon Tum; làng Vi Rơ Ngheo, xã Đăk Tăng, huyện Kon Plông; làng Kon Trang Long Loi, thị trấn Đăk Hà, huyện Đăk Hà; làng Đăk Răng, xã Đăk Dục, huyện Ngọc Hồi... Tại các làng này vẫn duy trì những đội cồng chiêng truyền thống, nghề dệt thổ cẩm, nấu rượu cần hay các nghi lễ tín ngưỡng có liên quan, người dân cũng bắt đầu mạnh dạn và dần làm quen với việc đón khách du lịch đến với thôn, làng của mình tham quan và trải nghiệm. Đây chính là động lực để đồng bào dân tộc thiểu số tiếp tục làm tốt hơn nữa công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.

Nguồn: Báo Dân tộc và Phát triển

 

 

Tags:

Bài viết khác

Những điều cần biết về tục thờ Linga và Yoni của người Chăm

Tục thờ Linga và Yoni có nguồn gốc từ cộng đồng người sống ở vùng lưu vực sông Ấn, thuộc chủng tộc Sumerian và Dravidan. Tín ngưỡng của họ gắn liền với thần thoại về thần mẹ và sự thờ cúng âm lực, coi sinh thực khí là nguồn gốc của mọi sự sáng tạo.

Các phong tục cần biết khi đến các làng bản của người dân tộc

Đồng bào các dân tộc Bắc Hà nói riêng và Lào Cai nói chung rất hiếu khách, nhưng khi du khách đến thăm làng, bản nên chú ý những điều kiêng kỵ và cần biết một vài phong tục, tập quán sinh hoạt để tiện ứng xử và giao tiếp.

Nhuộm răng đen - Phong tục lâu đời của người Việt

Nhuộm răng đen là một tục lệ lâu đời, xuất hiện từ thời Hùng Vương, tồn tại suốt mấy ngàn năm trong lịch sử văn hóa của người Việt. Đây vốn là phong tục cổ truyền không chỉ của cư dân người Việt mà còn tồn tại ở cộng đồng các dân tộc như Thái, Mường, Dao, Lự, Si La,…Trong cộng đồng người Việt, tục nhuộm răng đen chủ yếu chỉ phổ biến ở khu vực miền Bắc và miền Trung, còn ở miền Nam không thấy dấu vết của phong tục này.

Thala – nét đẹp văn hóa cộng đồng của người Khmer

Trên đường vào các phum, sóc của đồng bào Khmer Nam Bộ, đi khoảng một vài cây số, ta dễ dàng bắt gặp những ngôi nhà từ vài mét đến vài chục mét vuông, nép dưới bóng chùa hay bóng cây. Đó là các điểm dừng, nghỉ cho khách đi đường, do bà con dân tộc Khmer xây dựng. Tiếng Khmer gọi đó là các “Thala” (Schla).

Nghề làm cốm dẹp truyền thống của người Khmer (Sóc Trăng)

Cốm dẹp là một món ăn đặc sản nổi tiếng của vùng Sóc Trăng, không chỉ là biểu tượng văn hóa đặc trưng của địa phương mà còn gắn liền với đời sống văn hóa, tinh thần của đồng bào dân tộc Khmer Nam Bộ. Món ăn này không chỉ được sử dụng trong những bữa ăn hàng ngày mà còn là một phần không thể thiếu trong các dịp lễ quan trọng, đặc biệt là Lễ cúng Trăng - một sự kiện tôn giáo quan trọng của người Khmer.

Lễ cầu mùa - Nét đẹp văn hóa của người Tày, Nùng

Đến tháng 4, tháng 5 âm lịch hằng năm, người Tày, Nùng ở Cao Bằng tổ chức Lễ cầu mùa. Đây là nghi thức truyền thống không thể thiếu trong đời sống sản xuất nông nghiệp, nhất là trước khi bắt đầu một vụ mùa mới, cầu cho một năm mưa thuận, gió hòa, mùa màng tươi tốt, bội thu, cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Lễ Thuổm Cuổn của người Sán Chỉ (Cao Bằng)

Cộng đồng dân tộc Sán Chỉ sinh sống ở Cao Bằng hiện vẫn giữ gìn được những phong tục, nghi lễ mang đậm nét văn hóa truyền thống của dân tộc mình. Trong đó, nghi lễ Thuổm Cuổm là một trong những nghi lễ trọng đại nhất trong đời người của nam giới Sán Chỉ, bởi đây là nghi lễ khẳng định sự trưởng thành, có thể quyết định những việc lớn trong gia đình và dòng họ.

Nét đẹp tục “cưới lại vợ mình” của người Hà Nhì ở Y Tý

Tục “zà mì gù lá” nghĩa là “cưới lại vợ mình” của đồng bào Hà Nhì ở xã Y Tý, huyện bát Xát tỉnh Lào Cai là một tập tục đẹp được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Theo quan niệm của người Hà Nhì, như thế mới trọn nghĩa vẹn tình.
Top