Cổng Đình So
Nếu không kể tới một số trường hợp hãn hữu thì hầu hết các Thành hoàng đều được thờ phụng ở đình làng. Ngoài ra, ở đó còn là nơi trung tâm của đời sống tập thể cộng đồng, nơi hội họp của các hương hào, nơi giải quyết các vấn đề hành chính của nội bộ làng, nơi đón tiếp các quan khác cấp trên, nơi xử kiện, nơi sinh hoạt tín ngưỡng của làng, đặc biệt là các nghi lễ liên quan tới thờ cúng Thành hoàng và lễ hội hàng năm.
Đình làng được xây dựng xa làng nhưng làm sao lại có được vị trí là trung tâm của làng. Đó là một tổng thể kiến trúc khá rộng rãi để có thể vừa thờ cúng, tế lễ, lại vừa là nơi hội họp của đông đảo dân làng nơi mở hội hàng năm.
Hầu hết các đình làng có phần kiến trúc hình chữ đinh gồm hai phần: Hậu cung hay đình trong và Tiền tế hay đình ngoài. Phần đình trong để thờ cúng, còn phần đình ngoài để hội họp. Phía trước nhà tiền tế (đình ngoài) là một khoảng sân rộng – nơi mở hội theo “xuân thu nhị kỳ”, có thể hai bên tả hữu có hai dãy nhà ngang dài từ 5 -7 gian, là nơi sửa soạn, chuẩn bị cho ngày lễ tiết và hội hè của đình làng. Từ đường làng vào sân đình là cổng xây bằng hai hay bốn cái trụ cổng, độ rộng đủ để cho việc khiêng ra vào dễ dàng. Phần còn lại là tường bao quanh.
Đình làng Việt Nam
Hậu cung (đình trong) là nơi quan trọng và linh thiên nhất của ngôi đình làng. Nơi đó đặt bàn thờ Thành hoàng. Trên bàn thờ có đặt tượng hay ngai, phủ lên trên là tấm lụa đỏ hoặc vàng, thường có mũ và áo của thần. Trên bàn thờ có đặt tráp hay hộp sơn son thiếp vàng đựng sắc phong của cua cho Thành hoàng, được giữ gìn cẩn mật, thường chỉ ngày lễ hội mới được mở cửa ra đọc. Ngăn cách giữa đình trong (hậu cung) với đình ngoài (tiền tế) là hai cửa ở hai bên tả hữu có chạm trổ, hằng ngày phải đóng kín, khi lễ hội chỉ có các hương hào (cai đám, tế đám) mới được ra vào hậu cung. Trước hậu cung có bày đặt hương án, đồ bát bửu.
Phần nhà tiền tế (đình ngoài), gian giữa nối với hậu cung là nơi tiến hành các nghi lễ tế tự và dâng cúng thần, hai bên tả hữu đình ngoài là bục để dân làng và các quan viên của làng ngồi ăn uống và hội họp. Nơi đây cũng có thể bày đặt một số đồ lễ, như ngựa gỗ (ngựa sơn trắng hay đỏ) hay cáng dành cho nam thần, võng dành cho nữ thần. Các đồ này dùng khi rước thần từ đình đến nghè và ngược lại.
Liên quan tới ngôi đình còn có cái nghè. Nghè có thể ở gần đình hay xa đình, ở nghè chỉ có bàn thờ lộ thiên hay là một ngôi nhà có mái, bên trong có bàn thờ. Ở một số địa phương cho rằng tín ngưỡng thờ Thành hoàng mới chính là nơi ‘thờ trú” của Thành hoàng, khi có lễ tiết, hội hè mới rước Thành hoàng ra đình hành lễ, đến khi kết thúc họ lại rước Thành hoàng trở lại nghè. Cũng có thể giả thiết, nghè là nơi thờ cúng “Thổ thần” trước khi vị đó trở thành Thành hoàng và ngự ngôi đình như hiện nay, mà theo như tài liệu có được thì đình là nơi xuất hiện từ thời Lê (thế kỷ XV).
Ban Nghiên cứu Tôn giáo