banner 728x90

Kiến trúc đình làng Việt Nam

20/06/2024 Lượt xem: 2498

Cổng Đình So

Nếu không kể tới một số trường hợp hãn hữu thì hầu hết các Thành hoàng đều được thờ phụng ở đình làng. Ngoài ra, ở đó còn là nơi trung tâm của đời sống tập thể cộng đồng, nơi hội họp của các hương hào, nơi giải quyết các vấn đề hành chính của nội bộ làng, nơi đón tiếp các quan khác cấp trên, nơi xử kiện, nơi sinh hoạt tín ngưỡng của làng, đặc biệt là các nghi lễ liên quan tới thờ cúng Thành hoàng và lễ hội hàng năm.

Đình làng được xây dựng xa làng nhưng làm sao lại có được vị trí là trung tâm của làng. Đó là một tổng thể kiến trúc khá rộng rãi để có thể vừa thờ cúng, tế lễ, lại vừa là nơi hội họp của đông đảo dân làng nơi mở hội hàng năm.

Hầu hết các đình làng có phần kiến trúc hình chữ đinh gồm hai phần: Hậu cung hay đình trong và Tiền tế hay đình ngoài. Phần đình trong để thờ cúng, còn phần đình ngoài để hội họp. Phía trước nhà tiền tế (đình ngoài) là một khoảng sân rộng – nơi mở hội theo “xuân thu nhị kỳ”, có thể hai bên tả hữu có hai dãy nhà ngang dài từ 5 -7 gian, là nơi sửa soạn, chuẩn bị cho ngày lễ tiết và hội hè của đình làng. Từ đường làng vào sân đình là cổng xây bằng hai hay bốn cái trụ cổng, độ rộng đủ để cho việc khiêng ra vào dễ dàng. Phần còn lại là tường bao quanh.

Đình làng Việt Nam

Hậu cung (đình trong) là nơi quan trọng và linh thiên nhất của ngôi đình làng. Nơi đó đặt bàn thờ Thành hoàng. Trên bàn thờ có đặt tượng hay ngai, phủ lên trên là tấm lụa đỏ hoặc vàng, thường có mũ và áo của thần. Trên bàn thờ có đặt tráp hay hộp sơn son thiếp vàng đựng sắc phong của cua cho Thành hoàng, được giữ gìn cẩn mật, thường chỉ ngày lễ hội mới được mở cửa ra đọc. Ngăn cách giữa đình trong (hậu cung) với đình ngoài (tiền tế) là hai cửa ở hai bên tả hữu có chạm trổ, hằng ngày phải đóng kín, khi lễ hội chỉ có các hương hào (cai đám, tế đám) mới được ra vào hậu cung. Trước hậu cung có bày đặt hương án, đồ bát bửu.

Phần nhà tiền tế (đình ngoài), gian giữa nối với hậu cung là nơi tiến hành các nghi lễ tế tự và dâng cúng thần, hai bên tả hữu đình ngoài là bục để dân làng và các quan viên của làng ngồi ăn uống và hội họp. Nơi đây cũng có thể bày đặt một số đồ lễ, như ngựa gỗ (ngựa sơn trắng hay đỏ) hay cáng dành cho nam thần, võng dành cho nữ thần. Các đồ này dùng khi rước thần từ đình đến nghè và ngược lại.

Liên quan tới ngôi đình còn có cái nghè. Nghè có thể ở gần đình hay xa đình, ở nghè chỉ có bàn thờ lộ thiên hay là một ngôi nhà có mái, bên trong có bàn thờ. Ở một số địa phương cho rằng tín ngưỡng thờ Thành hoàng mới chính là nơi ‘thờ trú” của Thành hoàng, khi có lễ tiết, hội hè mới rước Thành hoàng ra đình hành lễ, đến khi kết thúc họ lại rước Thành hoàng trở lại nghè. Cũng có thể giả thiết, nghè là nơi thờ cúng “Thổ thần” trước khi vị đó trở thành Thành hoàng và ngự ngôi đình như hiện nay, mà theo như tài liệu có được thì đình là nơi xuất hiện từ thời Lê  (thế kỷ XV).

Ban Nghiên cứu Tôn giáo

 

Tags:

Bài viết khác

Phong tục cúng giỗ đầu trong văn hóa của người Việt

Giỗ đầu còn gọi là Lễ tiểu tường, là ngày giỗ đầu tiên, tổ chức sau ngày người mất đúng một năm. Đây cũng chính là một nét văn hóa đặc trưng của người Việt từ xa xưa cho đến hiện nay.

Sự khác biệt trong phong tục thờ cúng giữa người Hoa với người Việt

Dù chịu ảnh hưởng bởi lối sống của người Việt nhưng người Hoa vẫn giữ được những phong tục riêng, đặc biệt là phong tục thờ cúng. Chính việc giữ gìn phong tục này đã tạo nên sự khác biệt độc đáo giữa người Việt và người Hoa, góp phần làm đa dạng bản sắc văn hóa của các dân tộc.

Hình tượng chim hạc trong đời sống tâm linh người Việt

Chim Hạc với hình ảnh nhẹ nhàng, tinh tế uyển chuyển là biểu trưng cho điềm lành, thanh cao thoát tục, trường thọ và hạnh phúc. Người dân dùng hình tượng Hạc để biểu thị mong ước ấm êm, gia đình vui vẻ.

Vai trò của bản hội trong tín ngưỡng thờ Mẫu

Bản hội chính là một loại hình cộng đồng tôn giáo, tín ngưỡng. Cộng đồng này được cố kết với nhau bởi có cùng niềm tin vào sự độ trì của các vị thần trong tín ngưỡng thờ Mẫu và có chung một đồng thầy với những năng lực đặc biệt. Những phân tích lý thuyết về mối quan hệ giữa cộng đồng và di sản văn hóa đã chỉ ra vai trò chủ thể sáng tạo, thực hành, bảo vệ và trao truyền di sản của cộng đồng. Không có cộng đồng ắt sẽ không có di sản.

Tứ Phủ Thánh Cô trong tín ngưỡng thờ Mẫu

Tứ Phủ Thánh Cô gồm Thập Nhị Thánh Cô (Mười hai cô). Trong Đạo Mẫu, Tứ Phủ Thánh Cô đứng sau Ngũ Vị Tôn Ông, Tứ Phủ Chầu bà, Tứ Phủ Quan Hoàng, đứng trên Tứ Phủ Thánh Cậu.

Tục thờ cúng bà Mụ trong tín ngưỡng người Việt

Lễ cúng Mụ thịnh hành trong một số dân tộc châu Á trong đó có dân tộc Việt, và thường được tổ chức vào những thời điểm khi đứa trẻ mới sinh được 3 ngày (ngày đầy cữ), 1 tháng (ngày đầy tháng) và 1 năm (ngày thôi nôi).

Hành lễ trong tín ngưỡng thờ Mẫu

Cũng như các tôn giáo, tín ngưỡng khác, tín ngưỡng thờ Mẫu cũng có những nguyên tắc nhất định trong việc hành lễ. Hành lễ trong tín ngưỡng thờ Mẫu là hệ thống những hành vi, động tác nhằm biểu hiện sự tôn kính của con người với thần linh, phản ánh những ước mơ chính đáng của con người trước cuộc sống mà bản thân họ chưa có khả năng thực hiện.

Tứ Phủ Thánh Cậu trong tín ngưỡng thờ Mẫu

Tứ Phủ Thánh Cậu gồm có 12 Thánh Cậu, là các hình tượng nam thiếu niên, nhanh nhẹn, xông xáo, mạnh mẽ, hiếu động và thường là hầu cận của một vị thánh quan trong Tứ Phủ Quan Hoàng.
Top