banner 728x90

Độc đáo điệu múa chuông của dân tộc Dao

22/06/2024 Lượt xem: 2927

Múa chuông là vũ điệu độc đáo trong các nghi lễ của người Dao Đỏ ở vùng cao, là làn điệu linh thiêng được gìn giữ qua nhiều thế hệ. Đây là nét đẹp văn hóa nghệ thuật truyền thống không thể thiếu trong đời sống tinh thần của đồng bào dân tộc Dao. 

Trong các nghi lễ của người Dao Đỏ, múa chuông là vũ điệu linh thiêng, thường được sử dụng trong nhiều nghi lễ truyền thống, đặc biệt, múa chuông được dùng trong lễ cấp sắc (một nghi lễ quan trọng đối với người đàn ông dân tộc Dao). Tín ngưỡng này là một loại hình sinh hoạt văn hóa đặc trưng của dân tộc Dao và trở thành nhu cầu trong sinh hoạt văn hóa tâm linh, giúp người Dao gửi gắm niềm tin, ước vọng của mình. 

Trong điệu múa, chiếc chuông nhỏ bằng đồng là đạo cụ chính để tạo thành nhạc điệu nhịp nhàng, rộn ràng, khỏe khoắn. Tiếng chuông có trong hầu hết các nghi lễ truyền thống của người Dao, mỗi bài múa đều có giai điệu tiết tấu riêng và có ý nghĩa khác nhau. Trong lễ cấp sắc, điệu múa chuông sẽ do thầy cúng và trai tráng thực hiện, thường kết hợp với lời hát (lời khấn) của thầy cúng, có ý nghĩa trang trọng, linh thiêng, mang không khí vui mừng, phấn khởi. Khi điệu múa được thể hiện trong đám tang, lễ giải hạn, làm vía có ý nghĩa xua đuổi tà ma, tiễn người chết về cõi âm, chia buồn với gia chủ hoặc cầu mong những người còn sống bình an, mạnh khỏe. Điệu múa chuông khi thực hiện ở các lễ hội đầu năm để mong một năm mưa thuận, gió hòa, mùa màng tốt tươi, bội thu; đến cuối năm là múa mừng được mùa, thay lời tạ ơn tổ tiên. 

Múa chuông là vũ điệu độc đáo của người Dao.

Mỗi điệu múa chuông có thể từ 8 - 10 người tham gia, múa càng đông càng vui. Khi múa tay trái cầm một chiếc khăn, tay phải cầm chuông để đánh nhịp. Những chiếc chuông được lắc mạnh tạo thành nhịp đều đặn, những sợi tua màu được tung lên, hạ xuống nhịp nhàng, sinh động và đẹp mắt. Cùng trình diễn các động tác múa còn có lời hát cầu mong những điều tốt đẹp sẽ đến với dân bản. Một khác biệt so với nhiều môn nghệ thuật khác là người múa thể hiện từng động tác trên nền nhạc do mình thực hiện. Dù người tham gia múa khá đông, nhưng tiếng nhạc, động tác múa ăn khớp với nhau. Ngoài múa chuông, người Dao còn có các điệu múa tay không, múa lửa, múa kiếm, múa dao và múa gậy... 

Ông Triệu Kiềm Pu, xóm Lũng Chang, xã Vũ Minh (Nguyên Bình), người am hiểu về văn hóa truyền thống người Dao Đỏ cho biết: Múa chuông, múa bắt ba ba thường được diễn xướng trong những dịp lễ cầu mùa, lễ Bàn Vương, cấp sắc, trong các nghi thức của buổi lễ, điệu múa có ý ‎‎nghĩa cầu mong những điều tốt đẹp nhất đến với anh em, họ hàng, dân bản, cầu mong mùa màng bội thu, đời sống đủ đầy. Qua đó, để con cháu hiểu thêm về nguồn cội, bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc, góp phần phát huy sức mạnh đại đoàn kết để phát triển kinh tế gia đình, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Ngày nay, điệu múa chuông được bà con biểu diễn ở các xóm nhân dịp tổ chức Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc, các lễ hội, lễ kỷ niệm của địa phương. Người Dao Đỏ coi múa chuông là điệu múa linh thiêng nên luôn gìn giữ, truyền dạy cho con cháu. 

Chị Bàn Thị Hiền, xã Vũ Minh chia sẻ: Gắn bó với điệu múa chuông từ những ngày còn nhỏ, tôi luôn yêu mến, say sưa với những hình ảnh, thanh âm này. Cứ mỗi lần có dịp biểu diễn tại xóm, xã, tôi và các thành viên trong đội múa chuông miệt mài tập luyện, lưu giữ nét đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc mình. 

Mỗi dịp lễ, tết, điệu múa chuông lại vang lên trên khắp các bản làng của người Dao. Múa chuông là làn điệu linh thiêng được gìn giữ qua nhiều thế hệ, cần được lưu giữ, bảo tồn và phát huy.  

Thu Hoài/Báo Cao Bằng

 

 

Tags:

Bài viết khác

Tết Thanh minh của người Dao

Tết Thanh minh không chỉ là dịp để tưởng nhớ tổ tiên mà còn là một nét văn hóa đặc sắc của nhiều dân tộc thiểu số, trong đó có người Dao Quần Chẹt ở các tỉnh Tuyên Quang, Hòa Bình, Vĩnh Phúc. Đây là dịp để con cháu sum vầy, thể hiện lòng thành kính với bậc tiền nhân, đồng thời lưu giữ những phong tục truyền thống.

Nét văn hóa trong trang phục dân tộc H’mông

Nằm trong một quốc gia đa dân tộc, dân tộc H’mông được coi là một thành viên quan trọng trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Cùng với tiếng nói, chữ viết, trang phục cũng là một trong những chi tiết quan trọng đầu tiên để nhận biết và phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Trang phục truyền thống không chỉ mang đậm bản sắc văn hóa, mà còn chứa đựng những giá trị nghệ thuật, giá trị lịch sử của từng tộc người.

Những tấm dệt đan sắc núi rừng

Giữa sắc thẫm của đại ngàn Trường Sơn, đây đó nổi lên màu trắng của những dải mây vành khăn ở lưng chừng núi, màu đỏ của hoa gạo, hoa chuối, màu xanh của cây cỏ, màu vàng của lá úa rơi rụng, hay màu tím của hoàng hôn, màu của những tia nắng tán sắc cuối chân trời khi chiều muộn… Tất cả đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên mà người Tà Ôi ở không gian sống của chính tộc người mình

Những điều cần biết về tục thờ Linga và Yoni của người Chăm

Tục thờ Linga và Yoni có nguồn gốc từ cộng đồng người sống ở vùng lưu vực sông Ấn, thuộc chủng tộc Sumerian và Dravidan. Tín ngưỡng của họ gắn liền với thần thoại về thần mẹ và sự thờ cúng âm lực, coi sinh thực khí là nguồn gốc của mọi sự sáng tạo.

Các phong tục cần biết khi đến các làng bản của người dân tộc

Đồng bào các dân tộc Bắc Hà nói riêng và Lào Cai nói chung rất hiếu khách, nhưng khi du khách đến thăm làng, bản nên chú ý những điều kiêng kỵ và cần biết một vài phong tục, tập quán sinh hoạt để tiện ứng xử và giao tiếp.

Nhuộm răng đen - Phong tục lâu đời của người Việt

Nhuộm răng đen là một tục lệ lâu đời, xuất hiện từ thời Hùng Vương, tồn tại suốt mấy ngàn năm trong lịch sử văn hóa của người Việt. Đây vốn là phong tục cổ truyền không chỉ của cư dân người Việt mà còn tồn tại ở cộng đồng các dân tộc như Thái, Mường, Dao, Lự, Si La,…Trong cộng đồng người Việt, tục nhuộm răng đen chủ yếu chỉ phổ biến ở khu vực miền Bắc và miền Trung, còn ở miền Nam không thấy dấu vết của phong tục này.

Thala – nét đẹp văn hóa cộng đồng của người Khmer

Trên đường vào các phum, sóc của đồng bào Khmer Nam Bộ, đi khoảng một vài cây số, ta dễ dàng bắt gặp những ngôi nhà từ vài mét đến vài chục mét vuông, nép dưới bóng chùa hay bóng cây. Đó là các điểm dừng, nghỉ cho khách đi đường, do bà con dân tộc Khmer xây dựng. Tiếng Khmer gọi đó là các “Thala” (Schla).

Nghề làm cốm dẹp truyền thống của người Khmer (Sóc Trăng)

Cốm dẹp là một món ăn đặc sản nổi tiếng của vùng Sóc Trăng, không chỉ là biểu tượng văn hóa đặc trưng của địa phương mà còn gắn liền với đời sống văn hóa, tinh thần của đồng bào dân tộc Khmer Nam Bộ. Món ăn này không chỉ được sử dụng trong những bữa ăn hàng ngày mà còn là một phần không thể thiếu trong các dịp lễ quan trọng, đặc biệt là Lễ cúng Trăng - một sự kiện tôn giáo quan trọng của người Khmer.
Top