Gùi - đối với đồng bào Tây Nguyên - không chỉ là đồ vật sử dụng trong cuộc sống thường nhật như khi đi nương rẫy, đi chợ mua bán, địu con đi chơi…, mà còn là “tác phẩm mỹ thuật” được trang trí nhiều hoa văn, thể hiện đôi bàn tay khéo léo, óc thẩm mỹ, gửi gắm bao tâm tư tình cảm của người làm ra nó.
Chiếc gùi trong đời sống văn hóa đồng bào Tây Nguyên
Vật dụng hữu ích
Đến với đồng bào Tây Nguyên, chúng ta thường bắt gặp những hình ảnh các cụ già, phụ nữ, đàn ông và trẻ nhỏ đeo những chiếc gùi lên nương, xuống chợ… Họ gùi mọi thứ như củ măng lồ ô, thảo mộc, mớ lá, gốc cây, con heo, con gà… đến chợ; rồi lại gùi những gói mì tôm, chai nước, cân gạo, gói bánh… đi về.
Sinh sống trong điều kiện địa hình rừng núi, không thể dùng các phương thức vận chuyển như gánh gồng, đội, thì gùi là phương thức vận chuyển phù hợp với cư dân bản địa Tây Nguyên.
Đi trong rừng già, lối mòn rất nhỏ, với chiếc gùi đeo trên lưng, con dao trên tay rảnh rang, họ có thể vạch lá nâng cành trên lối đi, thậm chí có thể còn thu nhặt rau măng một cách thuận lợi. Với 2 quai gùi đeo trên 2 vai, gùi nằm phía sau lưng, chiếc gùi rất thuận tiện cho việc di dời, vận chuyển của đồng bào. Gùi theo họ lên rừng, đi rẫy, vận chuyển lúa bắp, rau măng; ra suối lấy nước; đi chợ, đi chơi, đi thăm hỏi người thân…
Có thể nói, chiếc gùi là vật dụng gắn liền với cuộc sống của đồng bào người Tây Nguyên nhất, đặc biệt là phụ nữ. Từ khi còn là đứa trẻ dăm bảy tuổi theo mẹ lên nương, các em đã học đeo những chiếc gùi trên vai. Cứ thế, chiếc gùi cùng các em lớn lên rồi lấy chồng, sinh con. Những đứa trẻ lại nằm trong gùi theo mẹ đi làm. Và, ngay cả những người phụ nữ 60, 70 tuổi vẫn cặm cụi đeo gùi trong những công việc của mình khi ra ngoài đường.
Nét văn hóa đặc trưng
Trong cuộc sống hiện đại hôm nay, đời sống của đồng bào đã khác trước, nhiều người đã có xe đạp xe máy, nhưng chiếc gùi vẫn là phương tiện vận chuyển khó có thể thay thế của họ. Chiếc gùi đã, đang và sẽ còn gắn bó thân thiết với cuộc sống của đồng bào các dân tộc bản địa nơi đây. Nó sống mãi cùng thời gian, từ quá khứ, hiện tại và cả tương lai cùng những người phụ nữ bản địa nơi đây.
Tùy theo từng tộc người mà hình dáng chiếc gùi của mỗi dân tộc có cấu tạo khác nhau, trang trí hoa văn, màu sắc khác nhau. Theo đó, với cộng đồng người Mông thì chiếc gùi có kích thước, hoa văn khác cộng đồng người Raglai, người Mạ, người Ba Na, người Jrai, người S’tiêng…
Có nhiều loại hình và kiểu dáng gùi khác nhau, nhưng về cơ bản có thể chia các loại: Gùi thân tròn, một lớp, đan thưa (nan to) để dùng lấy củi, rau, măng, hoặc đựng bầu khi đi lấy nước…; Gùi thân tròn, một lớp, đan dầy (nan nhỏ) dùng để đựng (hoặc cõng) lúa gạo, bắp....; Gùi thân dẹt một hoặc ba ngăn đan dầy (thường đan bằng mây - nan nhỏ) dùng cho đàn ông khi đi rẫy, đi săn để đựng cơm, thuốc hút, ống tên… (có tác dụng như chiếc ba lô), khi đeo áp chặt vào lưng, rất thuận tiện khi luồn lách trong rừng.
Gùi luôn là vật bất li thân, đặc biệt đối với người phụ nữ, đã trở thành biểu trưng cho tính chịu thương chịu khó của người phụ nữ các dân tộc Tây Nguyên. Với họ, chiếc gùi còn là niềm kiêu hãnh, là trang sức và tâm hồn của họ chứ không chỉ đơn thuần là dụng cụ để mang vác, thay thế cho đôi bàn tay như từ thủa sơ khai hàng trăm năm trước khi nó bắt đầu ra đời vậy. Nó có lẽ là một trong vài nét văn hóa đặc sắc nhất còn tồn tại đến nay trên mảnh đất này chưa bị cơn lốc của cuộc sống hiện đại cuốn đi. Dường như, không có hình ảnh nào đẹp đẽ miêu tả về phụ nữ Tây Nguyên bằng hình ảnh những chiếc gùi trên lưng họ.
Những chiếc gùi của bà con thường được làm từ tre và các loài cây thuộc họ tre, nứa và mây. Dây mây được dùng để cạp miệng và đế gùi, đan quai gùi. Đế gùi thường được làm bằng song, mây và các loại gỗ mềm. Trong quá trình đan thân gùi, người ta tạo hoa văn trang trí bằng cách đan cải hoa văn màu đen, màu đỏ (bởi các sợi nan đã được nhuộm mầu bằng nhựa cây rừng) hoặc các nan cùng màu bằng cách lật mặt cật hoặc mặt lòng để có hai màu khác nhau. Thân gùi có thể nẹp tre hoặc mây. Nẹp thân được ốp vào thân gùi bằng dây mây. Ở mỗi tộc người kích thước chiếc gùi và hoa văn trang trí trên đó cũng khác nhau, nếu không để ý kỹ, nhiều người sẽ khó lòng phân biệt được. Ví như chiếc gùi của người Mạ tại Lâm Đồng thường có hình trụ tròn thuôn nhỏ dần và được đan trơn nghĩa là không điểm xuyết thêm hoa văn, họa tiết hay các múi lượn sóng gì cả. Gùi của người S’tiêng tại vùng biên giới Đăk Nông không trụ tròn mà có dạng hình vuông trụ chéo, có những góc ở nếp làm cho nó trở nên đẹp đẽ hơn. Hơn nữa, gùi của người S’tiêng còn có cả nắp đậy nên dù nó chứa được ít đồ hơn nhưng lại tiện lợi và có nhiều công dụng hơn. Đặc biệt gùi của người Ê Đê vùng Đăk Lăk, Gia Lai là đặc biệt nhất bởi nó còn được làm từ…gỗ. Đó là những thân gỗ to được đục ruỗng ở thân, có quai để buộc dây vải thổ cẩm, đeo ngang lưng. Những loại gỗ thường được người Ê Đê dùng để chế tác gùi gồm gỗ hương, gỗ trầm. Tuy làm từ gỗ nhưng gùi của họ khá nhẹ, lại bền nên một chiếc gùi có thể dùng cả vài chục năm trời không bị hỏng như gùi bằng mây tre đan khác.
Từ những ngày nắng, ngày mưa cho tới những ngày giông gió hay sương giăng, người Tây Nguyên vẫn lặng lẽ với chiếc gùi trên vai, mặc dù nhịp sống hiện đại - với rất nhiều những công cụ khác có thể thay thế chiếc gùi - đã quét qua vùng đất Tây Nguyên từ khá lâu.
Không chỉ xuất hiện trong cuộc sống thường nhật, những chiếc gùi của người Tây Nguyên còn đi cả vào thơ ca, nhạc họa và phần nhiều đã trở thành thông dụng. Đặc biệt, cả những bức tượng điêu khắc của người Tây Nguyên cũng có dáng dấp của chiếc gùi. Như các loại tượng nhà mồ ở Tây Nguyên chẳng hạn. Họ đẽo các bức tượng phụ nữ, đàn ông đeo gùi quanh nhà mồ như thể hiện rằng, ngay cả ở thế giới bên kia thì đồng bào người dân tộc vẫn gắn bó với chiếc gùi như một phần không thể tách rời. Chính vì thế, nó là nét văn hóa đặc trưng, sâu sắc nhất trong tâm thức của đồng bào nơi đây.
Nguồn:quehuongonline.vn