banner 728x90

Các nghi lễ ở đình

21/06/2024 Lượt xem: 3244

Một trong những chức năng quan trọng của ngôi đình là nơi cúng lễ hằng năm. Ngoài ngày mồng một (lễ sóc) và ngày rằm (lễ vọng), người ta cúng lễ các Thành hoàng ở đình vào ngày đầu tháng của tháng 2, tức ngày Xuân tế, ngày đầu của tháng 8, tức Thu tế, ngày lễ Hạ điền (ngày xuất ruộng cấy lúa) và Thượng điền (cây lúa xong), ngày lễ Thường tân (nếm vật mới), tức ngày cơm mới vào tháng chín, ngày Thượng nguyên (rằm tháng giêng), tức lễ Kỳ yên và ngày Trung nguyên (rằm tháng bảy), tức ngày xá tội vong nhân, ngày mồng bảy tháng giêng làm lễ Khai ấn, tức ngày bắt đầu vào công việc thường năm.

Tế thần - Nghi lễ thờ cúng Thành hoàng tại đình

Người ta còn cúng thân vào các lễ tiết khác hằng năm: Hàn thực (3/3), Đoan ngọ (5/5), Trung thu (15/8), Lạp tiết (12/12). Ngoài ra, khi dân làng có sự bất thường: tang lễ, đám cưới, khao vọng… đều phải có đèn nhang cúng Thành hoàng.

Ngày lễ hội quan trọng nhất của một năm là ngày vào đám – vào hội. Đó là dịp vào mùa xuân hay mùa thu hay ngày sinh nhật, kỵ nhật của Thành hoàng. Trước khi vào hội, người ta phải làm lễ nhập tịch. Từ ngày nhập tịch đến ngày hội có thể kéo dài ngày. Trong khoảng thời gian đó, cả làng phải thực hiện một số kiêng kỵ, nhất là không được có tang lễ. Nếu làng có người chết thì phải chôn cất giấu hay quàn xác qua thời gian hội làng mới được phát tang.

Trong những ngày hội làng, người ta tiến hành nghi lễ rược thần từ nghè tới đình hay từ đình tới chùa hay đền, điều đó tùy thuộc vào mối quan hệ giữa các nơi thờ cúng đó của làng: đình – đền – chùa. Cũng có thể có hình thức rước giao hiếu giữa các đình của làng kề cận, nếu như họ có cúng Thành hoàng hay các Thành hoàng đó có mối quan hệ thân thuộc nào đó.  Nghi thức quan trọng nhất của hội làng là tế. Người ta thường phân biệt giữa lễ và tế. Lễ là nghi thức cúng lễ theo như lịch trình hàng tháng hằng năm đã nêu trên, còn tế là nghi lễ chỉ thực hiện vào dịp hội làng; lễ tế Xuân và lễ tế Thu.

Tế được quy định nghiêm ngặt, đòi hỏi tổ chức chặt chẽ, huy động nhiều người cùng phối hợp thực hiện. Trước nhất là cúng tế, hai bồi tế; đông xướng và tây xướng, các chấp sự (tức người phục vụ cho chủ tế việc dâng  hương, rượu trong khi tế). Số người chấp sự có thể từ 2 – 8 người, càng đông cuộc tế càng lớn và long trọng. Những người tham gia tế ăn mặc theo quy cách riêng; mặc áo dài xanh, mũ có dải, đi giày vải hoặc nhung. Những năm gần đây phổ biến đội tế nữ quan, mặc áo dài vàng hay đỏ, đội khăn dây quấn trên đầu.

Trước bàn thờ diễn ra cuộc tế có trải 3 chiếc chiếu; chiếu gần bàn thờ là chiếu dâng rượu và đọc lời nguyện cầu, chiếu thứ hai dành cho ẩm phúc (uống phúc), chiếu thứ ba dành cho chủ tế đứng khi làm lễ. Các bồi tế đứng sau chủ tế, các chấp sự chia thành hai nhóm đứng bên phải và trái chủ tế. Đông xướng và tây xướng đứng hai bên hướng mặt vào chủ tế. Mọi hành động của người hành lễ phải nhất nhất tuân theo lời của Đông xướng hô to và Tây xướng lặp lại. Việc lễ lạy trước bàn thờ cũng phải theo đúng quy cách: 10 lạy, 3 lần dâng rượu, 4 lạy rước thần…

Ông Nguyễn Văn Khoan trong công trình: phác thảo về Đình và sự thờ phụng thần Thành hoàng của các làng ở Bắc kỳ đã liên tục kê ra 48 nghi thức nối tiếp nhau của một lễ tế. Là nghi thức tôn vinh thần Thành hoàng, thường một buổi tế như vậy kéo dài nhiều giờ, luôn luôn giữ vẻ thành kính, trang nghiêm, không được để điều gì sơ suất. Có những cuộc hội làng không chỉ có một cuộc tế, mà có thể có nhiều cuộc tế, tùy theo cơ cấu tổ chức xã hội của làng. Trong cuộc tế, nhạc tế chủ yếu chỉ dùng trống và chiêng. Sau khi kết thúc các nghi lễ thờ cúng, các quan viên của làng tổ chức ăn uống. Tuy nhiên, việc sắp xếp các quan viên vào cỗ cũng phải theo tuổi tác và ngôi thứ.

Ban Nghiên cứu Tôn giáo

 

Tags:

Bài viết khác

Độc đáo lễ cưới của đồng bào Ve

Sau thời gian tìm hiểu, cặp đôi quyết định thưa chuyện với cha mẹ hai bên gia đình để tìm mai mối se duyên. Nếu mọi thứ tốt đẹp, một lễ cưới sau đó được diễn ra với nhiều nghi thức truyền thống mang đậm giá trị bản sắc của đồng đồng bào Ve…

Văn hóa dùng đũa: Tinh thần lễ nghĩa trong mỗi bữa ăn Việt

Ẩm thực Việt Nam là sự giao thoa hài hòa giữa các vùng miền, mỗi nơi mang một sắc thái riêng biệt trong cách chế biến, bày biện và thưởng thức món ăn. Tuy nhiên, giữa sự đa dạng ấy, có một điểm chung mang tính biểu tượng, đó là việc sử dụng đũa – một vật dụng giản dị nhưng đầy ý nghĩa trong đời sống ẩm thực của người Việt.

Nét đẹp tâm linh trong nghi lễ buộc chỉ cổ tay của người Khùa

Trong kho tàng văn hóa phong phú của các dân tộc thiểu số Việt Nam, nghi lễ buộc chỉ cổ tay của người Khùa là một nét đẹp tâm linh đặc sắc, phản ánh đậm nét thế giới quan và nhân sinh quan truyền thống. Người Khùa – một nhóm dân tộc sinh sống chủ yếu ở vùng biên giới Việt – Lào, đặc biệt tại huyện Bố Trạch và Minh Hóa (tỉnh Quảng Bình) – vẫn lưu giữ tập tục này như một phần thiêng liêng trong đời sống văn hóa tinh thần.

Cúng Tết Đoan Ngọ và những điều cần lưu ý

Phong tục cúng Tết Đoan Ngọ đã tồn tại từ xa xưa ở Việt Nam, nhưng cúng sao cho đúng, cho đủ lại là điều không phải ai cũng biết.

Lễ tế trâu trên đền tháp Po Klong Garai

Cứ đến chu kỳ 7 năm, tộc họ Cuah lại tổ chức Nghi lễ tế trâu dâng lên thần linh trên đền tháp Po Klong Garai. Đây là dịp để các thành viên trong dòng tộc gặp mặt, cùng nhau tưởng nhớ ông bà, tổ tiên và cũng là cách để bảo tồn các nghi lễ truyền thống của người Chăm, nhất là hát xướng ca của chức sắc ông Kadhar cùng các điệu múa dâng lễ đặc sắc, thu hút người xem.

Đền tháp Po Klong Garai: Biểu tượng vững bền của văn hóa Chăm

Đền tháp Po Klong Garai là một trong những công trình kiến trúc và điêu khắc tiêu biểu và nổi bật của người Chăm được bảo tồn khá nguyên vẹn. Tháp tọa lạc trên đồi Lá trầu (Mbuen Hala), thuộc phường Đô Vinh, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận. Văn khắc bằng chữ Chăm cổ trên đá sa thạch cung cấp những thông tin về văn hóa, lịch sử quý giá như công lao và thần tích của vua Po Klong Garai, các hoạt động tế lễ, cúng bái và tổ chức xã hội của người Chăm

Độc đáo Lễ cưới “ Dứ bà đù” của người Hà Nhì đen (Lào Cai)

Trên mảnh đất biên cương Y Tý, Lào Cai, người Hà Nhì đen vẫn gìn giữ nhiều phong tục truyền thống độc đáo, trong đó lễ cưới “Dứ bà đù” được xem là một nét văn hóa tiêu biểu, phản ánh rõ bản sắc dân tộc và đời sống tinh thần của họ.

Vang danh nghề gốm Lái Thiêu (Bình Dương)

Bình Dương được thiên nhiên ưu đãi có nguồn khoáng sản đất sét và cao lanh rất phù hợp cho nghề làm gốm. Trong những làng gốm ở Bình Dương thì làng gốm Lái Thiêu đã nổi danh trong và ngoài nước bởi sự mộc mạc nhưng không kém phần tinh tế và đậm chất Nam bộ.
Top