banner 728x90

Bài 5: Lễ hội Phủ Suối Mỹ Quan, một sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của người dân xã Hà Vinh cần được giữ gìn

09/04/2024 Lượt xem: 2926

Theo truyền thống, lễ hội Phủ Suối Mỹ Quan được tổ chức 3 ngày từ 17 đến 19 tháng 3 Âm lịch. Tại lễ hội có đủ hai phần lễ và phần hội.

* Phần lễ: Gồm có lễ rước kiệu và lễ tế, thời gian bắt đầu từ 7h30 phút đến 11h00. Thanh Hóa có 48 nơi thờ Mẫu Liễu Hạnh.

+ Lễ rước kiệu: được bắt đầu từ Phủ Suối rước về đình làng Mỹ Quan, sau đó quay về sân Phủ. Lực lượng tham gia gồm: Đoàn tiêu binh khoảng 40 người, khiêng bộ chấp kích 04 người, đoàn khiêng kiệu 08 người, vác lọng 04 người, đội tế 12 người. Tất cả những người tham gia đoàn rước kiệu được lựa chọn rất khắt khe, cẩn thận, gia đình trong năm có chuyện tang cớ không được tham gia đoàn rước kiệu. Trình tự đi rước kiệu: Kiệu đi trước, lọng đi hai bên, chân kiệu, chấp kích, giá chấp kích và 60 tiêu binh, bà con nhân dân trong xã và các vùng lân cận theo sau.

+ Lễ tế: Khi đoàn rước kiệu về đến Phủ thì đặt kiệu bên phía bên phải và đưa ngai thờ, bài vị đặt trước, bộ chấp kích đặt đối xứng hai bên ngai thờ và bài vị sau đó đội tế nữ quan mới được thực hiện các nghi thức tế với 3 tuần tế. Thời gian tế khoảng hai tiếng đồng hồ cùng với lễ tế chính thức của Chủ tế, lễ đọc chúc văn và lễ hóa chúc văn. Sau khi tế xong là lễ hạ lễ và kết lễ bằng một hồi trống do Ban tổ chức thực hiện.

* Phần hội: Nếu như phần lễ là phần đạo, thể hiện sự linh thiêng và trang

trọng thì phần hội là phần đời, phần hiện thực. Ở đó mọi người sống hết mình, không phân biệt giới tính, đẳng cấp, tuổi tác. Các trò chơi dân gian diễn ra trong lễ hội là dịp để nhân dân các làng trong xã thi thố tài năng, thể hiện sự khéo léo, nhanh nhẹn, tài trí về tinh thần với các trò chơi như làm cho không khí ngày hội rất vui vẻ, việc tế lễ trở thành ngày hội làng có sức cuốn hút hàng ngàn người tham gia. Ngoài ngày lệ, thì các ngày rằm, mồng một Âm lịch, phủ vẫn liên tục có người đến hành lễ tâm linh.

Hiện nay chưa tìm được tài liệu cho biết về lịch sử khởi dựng Phủ Suối. Theo nội dung sắc phong còn lại có niên đại vào năm Khải Định thứ 9 (1924), lời kể của các cụ cao niên 13 và đối sánh với những cứ liệu lịch sử, sự tích về những hoạt động của Thánh Mẫu Liễu Hạnh tại khu vực Phố Cát - Sòng Sơn cho chúng ta những gợi mở về lịch sử ra đời của phủ Suối.

Các cụ: Ngô Xuân Thược 91 tuổi, Bùi Văn Thành 83 tuổi, Trương Văn Tiêm 83 tuổi, Phạm Bảo Vệ 79 tuổi, Lã Đức Nam 68 tuổi, Ninh Quang Kệ 68 tuổi, Vũ Quốc Ngữ 68 tuổi, Bùi Đình Tại 66 tuổi, làng Mỹ Quan, xã Hà Vinh, huyện Hà Trung cho biết: Phủ Suối có lịch sử xây dựng hàng trăm năm và việc thờ phụng vị thần đã thành tục lệ truyền thống của nhân dân nơi đây, được triều đình phong kiến sắc phong ghi nhận. Có ý kiến cho rằng Phủ Suối có thể được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ XVII. Tuy nhiên, theo dấu ấn kiến trúc phần Hậu cung của Phủ (trước khi bị dỡ bỏ) được xây theo kiểu cuốn vòm nên có thể đến thời Nguyễn thì Phủ đã được tu sửa lại, bởi kiểu thức kiến trúc cuốn vòm mang phong cách thời Nguyễn.

Phỏng vấn cụ Ngô Xuân Thược (91 tuổi) và cụ Nguyễn Văn Thành (Chi hội trưởng Người cao tuổi) thôn Mỹ Quan Phủ Suối, Hà Vinh, Hà Trung, Thanh Hoá.

Phỏng vấn cụ Ngô Xuân Thược (91 tuổi) và cụ Nguyễn Văn Thành (Chi hội trưởng Người cao tuổi) thôn Mỹ Quan Phủ Suối, Hà Vinh, Hà Trung, Thanh Hoá.

Theo các cụ cao niên làng Mỹ Quan 14 kể lại thì trước khi Phủ bị phá vào những năm 1952-1953, di tích có kết cấu kiến trúc theo kiểu Tiền Nhất Hậu Đinh, gồm có các ngôi nhà: Tiền Đường, Trung đường và Hậu cung. Tiền đường: Được cấu tạo bởi 6 vì kèo gỗ tạo thành ngôi nhà 5 gian hai chái, cửa cuốn để trống, không có cánh cửa. Kết cấu bởi 6 vì kèo gỗ được chạm trổ các linh vật (Long, Ly, Quy, Phượng), mái lợp ngói mũi. Trung đường: Là ngôi nhà 5 gian được kết cấu theo kiểu thu hồi bít đốc với 4 vì kèo gỗ được chạm trổ các linh vật theo cụm đề tài Tứ linh, mái lợp ngói mũi. Hệ thống cửa được làm theo kiểu thượng song hạ bản. Hậu Cung: Được kết cấu dọc theo lối kiến trúc cuốn vòm, không có vì kèo. Từ Trung đường thông với Hậu cung được xây 2 trụ với 3 cửa cuốn vòm không có cánh. Trong đó cửa giữa lớn hơn, là nơi để hương án với bát hương thờ Công đồng, còn hai cửa bên nhỏ hơn, là lối đi ra vào Hậu cung. Trụ cột được trang trí hoa văn bằng đường gờ chỉ, bên trên đắp hình đấu bát, hai bên treo đôi câu đối bằng chữ Hán có nội dung:

“… Yểu điệu Mỹ nhân Thiên hạ hữu

Anh linh thần nữ thế gian vô …

Vào những năm 1952-1953, Phủ Suối bị phá, hệ thống đồ thờ, tượng, sắc phong bị thất tán nhiều nơi, gỗ lạt, gạch ngói mang đi xây dựng các công trình phúc lợi khác. Đến cuối những năm 80 đầu những năm 90 của thế kỷ XX, Phủ Suối đã được bà con dân làng đóng góp vật liệu xây dựng lại. Công trình gồm có: Nhà Tiền đường, Trung đường và Hậu cung; lầu cô Chín. Nhà Tiền đường 5 gian được xây bằng gạch vữa, vì kèo suốt bằng thanh sắt chữ V, gác chếnh, mái lợp ngói mũi. Nhà Tiền đường có kích thước chiều dài 11m, chiều rộng 4,5m; hiên 1m; được mở 3 cửa, cánh cửa pa nô bằng gỗ tạp. Nối nhà Tiền đường với nhà Trung đường là hệ cửa cuốn vòm gồm có 3 cửa, trong đó cửa giữa lớn hơn, là nơi đặt ban thờ Công đồng; hai cửa bên nhỏ hơn, là lối ra và vào cung trong. Nhà Trung đường 3 gian cũng được xây bằng gạch vữa, vì kèo bằng bê tông cốt thép; Mái ngoài cũng được lợp ngói hòa bình. Kích thước nhà trung đường có chiều dài 7m; chiều rộng 3,3m; Từ trung đường vào Hậu cung được trổ 3 cửa để thông, cửa giữa cũng đồng thời là nơi đặt Ban thờ Ngọc Hoàng và Nam Tào, Bắc Đẩu. Hậu cung được nối thông từ trung đường bằng 3 cửa cuốn vòm, kết cấu theo chiều dọc hai mái; kích thước chiều dài 4,9m; chiều rộng 3,1m; rui mè, đòn tay được làm bằng tre luồng, bên ngoài lợp ngói. Tất cả tường bao cũng được xây dựng bằng gạch vữa, quét vôi ve. Bên trong có trang trí các họa tiết hoa văn rồng phượng cách điệu, màu sắc sặc sỡ phù hợp với không gian thờ Mẫu. Bên hồi phía Bắc, sát chân núi được xây một lầu thờ cô Chín. Công trình này cũng được xây dựng bằng gạch vữa, mái lợp ngói mũi, nền được lát gạch hoa kiểu mới.

Theo nội dung của Sắc phong có niên hiệu Khải Định năm thứ 9 cho biết: Phủ Suối là nơi thờ chính của Mã Hoàng công chúa Liễu Hạnh cùng với hai cô Quỳnh Hoa và Quế Hoa công chúa. Tuy nhiên, ở Phủ Suối cũng được phối thờ thêm một số vị thần khác theo tín ngưỡng Tam phủ. Tính từ vách hậu cung ra gồm có các ban thờ sau:

- Ban thờ thứ nhất (Hậu cung): Là nơi đặt tượng Tam Tòa Thánh Mẫu (gồm có tượng Thánh Mẫu Liễu Hạnh mặc trang phục màu đỏ ngồi giữa; tượng Thánh Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn, mặc trang phục màu xanh; Tượng Mẫu Đệ Tam Thoải phủ trong trang phục màu trắng).

- Ban thờ thứ 2 (Trung đường) là ban thờ Ngọc Hoàng và Nam Tào, Bắc Đẩu. Trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt, Ngọc Hoàng được gọi làVua cha Ngọc Hoàng, là cha của Thánh Mẫu Liễu Hạnh, đấng thần chủ tối cao nên được thờ trong phủ thờ Thánh Mẫu và Nam Tào – Bắc Đẩu và Phủ Suối làng Mỹ Quan cũng thờ như thế.

- Tiếp đến ban thờ thứ 3 (Trung đường) là ban thờ Ngũ Vị Tôn ông hay còn gọi là Ngũ vị Quan lớn. Trong các ban thờ Tứ Phủ thì phía trước ban thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế luôn đặt 5 bức tượng của Ngũ vị tôn quan (Ngũ vị quan lớn) với trang phục của các vị lần lượt là màu đỏ, màu xanh lá cây, màu trắng, màu vàng và xanh tím. Ngũ vị tôn quan trong tín ngưỡng thờ Tứ Phủ được tính từ quan Đệ Nhất đến quan Đệ Ngũ (gồm Quan Đệ Nhất Thượng Thiên; Quan Đệ Nhị Giám Sát; Quan Đệ Tam Thoải Phủ; Quan Đệ Tứ Khâm Sai và Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh).

- Lầu thờ Cô Chín Cửu Tỉnh (Cô Chín Giếng) Bên phía hồi phải của Phủ chính (sát chân núi) còn có lầu thờ Chầu Chín Cửu Tỉnh (tức là cô Chín Giếng). Đây chính là Quỳnh Hoa Công Chúa, một tiên cô có tài phép, theo hầu Mẫu Liễu Hạnh.

Theo kết cấu nền móng bê tông của Phủ Suối hiện nay thì công trình gồm có các hạng mục sau: Tiền đường, Trung đường và Hậu cung. Toàn bộ công trình chính là hướng Đông theo hướng của các công trình trước kia. Kiến trúc công trình được thiết kế theo hình thức Tiền nhất (-) Hậu Đinh (J). Tiền đường có kích thước chiều dài 13,2m x 9,3m; Có hành lang phía trước. Bố cục nhà với 5 gian hai chái. Giữa gian Tiền đường và Trung đường là khoảng sân Thiên tỉnh có kích thước 3,8m x 9,4m. Trung đường và Hậu cung kiến trúc theo hình chữ Đinh (J). Trung đường có kích thước 13,2m x 7,7m. Hậu cung có kích thước 6,42m x 5,6m. Ngoài ra, trong khuôn viên di tích hiện nay có một ngôi nhà 3 gian nhỏ làm nơi sinh hoạt của thủ từ. Hiện nay hệ thống thờ tự đang được bảo quản và thờ tự tạm thời trong ngôi nhà này.

Các hiện vật tại Di tích: Hương án1, Bát hương1, Tượng tam tòa Thánh Mẫu, Mâm Bồng1, Bát hương sứ2, Đài nước1, Bình hoa sứ, Hương án2, Mâm bồng2, Bát Hương2, Đài nước2, Bát Hương sứ3, Lư hương, Tượng ngũ vị tôn ông, Tượng Ngọc Hoàng, Tượng Nam Tào, Bát hương đồng, Tượng Bắc Đẩu, Bàn gỗ, Giá chiêng…, Khám thờ1, Bát hương sứ4, Tượng cô1, Đài nước3, Khám thờ2, Bình hoa, Tượng cô2, Bàn loan, Khám thờ3, Đế cắm lộng, Tượng Mẫu Thoải…

(còn nữa….)

 

Tác giả Thạc sĩ Phùng Quang Trung

 

Tags:

Bài viết khác

Khám phá khu di tích lịch sử văn hóa ngàn năm tuổi ở Bà Rịa – Vũng Tàu

Giữa miền đất Long Điền (Bà Rịa – Vũng Tàu) chan hòa nắng gió, khu di tích lịch sử – văn hóa Bàu Thành sừng sững như một nhân chứng lặng lẽ hàng nghìn năm lịch sử. Nơi đây, từng lớp dấu tích cổ xưa hòa quyện cùng nhịp sống hiện đại, tạo thành điểm đến độc đáo vừa gợi trí tò mò vừa làm dậy lên lòng tự hào về một vùng biên viễn oai hùng.

Lễ hội chùa Keo và 6 nghi thức độc đáo: Di sản văn hóa tâm linh Việt Nam

Nằm yên bình bên dòng sông Hồng thơ mộng, chùa Keo – tên chữ là Thần Quang Tự – tọa lạc tại xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Đây là một trong những ngôi chùa cổ kính, có giá trị lịch sử và nghệ thuật bậc nhất ở Việt Nam.

Làng nghề bánh tráng Trảng Bàng – Di sản văn hóa của người dân Nam Bộ

Nhắc đến Tây Ninh, người ta thường nghĩ ngay đến món bánh canh Trảng Bàng trứ danh. Thế nhưng, mảnh đất nắng gió này còn ẩn chứa một di sản văn hóa lâu đời: làng nghề bánh tráng phơi sương Trảng Bàng – nơi kết tinh tinh hoa ẩm thực và tâm hồn người dân Nam Bộ.

Người mở cõi – Vị khai quốc công thần đất Đồng Nai

Cách đây 327 năm, vào mùa xuân năm 1698, theo lệnh Chúa Nguyễn Phúc Chu, Chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh dẫn binh thuyền xuôi dòng sông Sài Gòn rồi ngược dòng Đồng Nai, đặt chân đến vùng Cù Lao Phố. Với tầm nhìn chiến lược và phẩm chất của một nhà kiến thiết, ông đã nhanh chóng thiết lập dinh Trấn Biên, ổn định trật tự, khai sinh hệ thống hành chính cho vùng đất hoang hóa rộng lớn, mở đầu cho quá trình xác lập chủ quyền của Đàng Trong trên phần đất Nam Bộ ngày nay.

Lăng Văn Sơn: Nét chạm của di sản trong đô thị hiện đại

Giữa nhịp phát triển sôi động của vùng Tây Hà Nội, Lăng Văn Sơn – di tích lịch sử quốc gia tại xã Tân Hội, huyện Đan Phượng – vẫn là biểu tượng văn hóa, điểm tựa tâm linh và niềm tự hào của người dân địa phương. Nơi đây không chỉ gắn với vị tướng Văn Dĩ Thành – người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống quân Minh vào đầu thế kỷ XV – mà còn lưu giữ những giá trị trường tồn của vùng đất Tổng Gối anh hùng.

Hình tượng Dê trong văn hóa thế giới và nghệ thuật truyền thống Việt Nam.

Hình tượng con dê là một biểu tượng phổ biến trong nhiều nền văn hóa trên thế giới, với ý nghĩa đa dạng từ tôn giáo, triết lý đến nghệ thuật và tín ngưỡng dân gian. Tại Việt Nam, con dê không chỉ là động vật quen thuộc trong đời sống nông nghiệp mà còn giữ vị trí biểu tượng trong nghệ thuật tạo hình và kiến trúc truyền thống.

Bảo tàng – Thư viện Bà Rịa - Vũng Tàu: Hành trình đưa di sản văn hoá đến gần hơn với du khách

Không chỉ lưu giữ ký ức, di sản văn hóa còn là nhịp cầu kết nối giữa quá khứ và hiện tại, giữa người dân và quê hương, giữa du khách và những câu chuyện lịch sử tưởng như đã lùi xa. Ở thành phố du lịch biển Vũng Tàu – hành trình ấy đang được tiếp nối sáng tạo và nhân văn qua nỗ lực không ngừng của Bảo tàng – Thư viện tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Ý nghĩa biểu tượng của tượng Phật Bà Quan Âm nghìn tay nghìn mắt - Di sản vô giá của dân tộc

Sự sùng bái Bồ tát Quan Âm có liên quan mật thiết đến sự phát triển của Tịnh độ tông và Mật tông, cụ thể là tư tưởng “Tịnh Mật hợp nhất”. Chính tại thời điểm giao thoa của hai tông này mà sức sáng tạo các hình tượng Bồ tát Quan Âm ngày càng trở nên phong phú, đa dạng.
Top