banner 728x90

BÀI 2: Lễ hội Phủ Suối Mỹ Quan (18/3 âm lịch)

03/04/2024 Lượt xem: 2406

Phủ Suối Mỹ Quan (xã Hà Vinh,  huyện Hà Trung tỉnh Thanh Hóa) tọa lạc trên một khu đất rộng rãi thoáng đãng, dưới những tán cây cổ thụ xanh mát, giữa không gian đồng ruộng bát ngát mía, ngô thanh bình, yên ả. Không chỉ vậy, phủ Suối còn nằm trong quần thể di tích thắng cảnh của dãy Tam Điệp - Bỉm Sơn chạy ra cửa biển Thần Phù xưa theo tuyến sông Hoạt. Phủ Suối cách Đền Sòng, Chín Giếng về phía Tây khoảng 7 km theo chim bay, cách chùa Thanh Vân trong bán kính chưa đầy 1 km; theo đường thủy trên sông Hoạt khoảng 3-4 km là đến cụm di tích thắng cảnh của động Lục Vân thơ mộng và bên bờ nam là đền thờ Áp Lãng Chân Nhân La Viện và không xa là đến động Bạch Á đã được các tao nhân mặc khách đề thơ trên vách núi... Tất cả đã tạo cho vùng này một không gian văn hóa, lịch sử đậm nét, có sức hấp dẫn đối với nhân dân địa phương, du khách thập phương đến thăm và tìm hiểủ.

Tên Phủ Suối được người dân xã Hà Vinh, huyện Hà Trung giải thích một cách đơn giản rằng do phủ nằm sát chân núi phía Nam của dãy Tam Điệp thuộc làng Mỹ Quan. Đây là phủ thờ Thánh Mẫu Đệ Nhất Thượng Thiên Liễu Hạnh, phủ được xây dựng bên cạnh dòng suối ngầm bắt nguồn từ trong lòng núi đá chảy ra, vì thế mà di tích có tên gọi là Phủ Suối. Phủ Suối nằm trong bộ Cửu Chân của nhà nước Văn Lang thời các Vua Hùng dựng nước, vào thời kỳ đó Mỹ Quan trang thuộc huyện Tư Phố đã có vị trí trọng yếu không chỉ về mặt vị trí địa lý mà còn cả trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa của quận Cửu Chân. Dưới thời Tam quốc – Lương Tấn – Nam Bắc Triều (từ năm 210 – 581). Thanh Hóa vẫn được gọi là quận Cửu Chân, mảnh đất Mỹ Quan – Hà Vinh (Hà Trung) thuộc huyện Kiến Sơ. Thời thuộc nhà Tùy – Đường (581 – 907), vùng đất Hà Trung trong đó có xã Hà Vinh lại thuộc về huyện Nhật Nam. Dưới triều Đinh – Tiền Lê – Lý. Năm Thiên Thành thứ 2 (1029), vua Lý Thái Tông đổi châu Ái thành phủ Thanh Hóa, Hà Trung vẫn là vùng đất thuộc huyện Sùng Bình và Nhật Nam, dưới huyện là các xã, hương, trang ấp. Làng Mỹ Quan có tên gọi là Hợp Hòa trang. Thời Trần – Hồ, vua Trần Thuận Tông, niên hiệu Quang Thái năm thứ 10 (1889-1907).

Theo các cụ cao niên truyền lại thì Phủ Suối trước kia có hàng chục đạo sắc của các triều vua ban tặng nhưng khu phủ bị phá thì hệ thống sắc phong cũng như đồ thờ tự bị thất tán. Hiện nay, chỉ còn lại 1 đạo sắc ngày 25 tháng 7, niên hiệu Khải Định năm thứ 9 (1924). Phủ Suối có lịch sử xây dựng cách ngày nay hàng trăm năm, và việc thờ phụng vị thần đã thành tục lệ truyền thống của bà con nhân dân nơi đây, được triều đình phong kiến sắc phong ghi nhận. Qua đó cho thấy Phủ Suối có thể được xây dựng vào khoảng thế kỷ XVI. Tuy nhiên theo dấu ấn kiến trúc phần hậu cung của phủ được xây theo kiểu cuốn vòm nên có thể đến thời Nguyễn thì phủ đã được tu sửa lại, bởi kiểu kiến trúc cuốn vòm mang phong cách thời Nguyễn.

Trước khi bị phá, di tích có kết cấu kiến trúc theo kiểu Tiền Nhất Hậu Đinh, gồm có các ngôi nhà tiền đường, trung đường và hậu cung. Tuy nhiên cũng như trong tình trạng nhiều di tích khác, vào những năm 1952 - 1953 Phủ Suối bị phá, hệ thống đồ thờ, tượng, sắc phong bị thất tán nhiều nơi, gỗ lạt, gạch ngói mang đi xây dựng các công trình phúc lợi khác. Trong nhiều năm qua, để đáp ứng được nhu cầu tâm linh của người dân, với tấm lòng hảo tâm của con em địa phương trong và ngoài tỉnh, cùng với du khách thập phương quyên góp ủng hộ, Phủ Suối đã được đầu tư xây dựng thêm nhiều hạng mục. Con đường vào Phủ Suối giờ đây đã được mở rộng khang trang và đổ bê tông sạch sẽ, khuôn viên, tường rào, sân vườn cũng đang được xây dựng từng bước để tránh sự xâm hại đến di tích. Đồng thời tạo cảnh quan môi trường sạch sẽ, thoáng mát cho Phủ Suối, tạo sức hấp dẫn cho du khách xa gần đến hành hương vãn cảnh.

Thạc sĩ  Phùng Quang Trung và Du khách

Tại Phủ Suối, ngoài ngày lễ, thì các ngày thường, đặc biệt là ngày rằm, mồng một, Phủ vẫn liên tục có người đến cầu cúng. Nhưng chỉ trong những ngày hội, chính hội tổ chức vào ngày 18/3 ÂL thì người đến mới đông. Tại đây diễn ra đội rước kiệu gồm 12 người khiêng cỗ kiệu Long Đình từ đình làng về Phủ gọi là lễ rước sắc (vì sắc phong được cất giữ ở đình làng). Đội khiêng kiệu và lọng, tàn, cờ quạt, biển bài, chấp kích bát bửu... trong trang phục áo đỏ, quần đỏ, chít khăn đỏ và đi hia. Tiếp sau kiệu là đến các ông từ, các cụ phụ lão trong trang phục áo theo khăn xếp, các cụ trong ban khánh tiết mặc trang phục áo thụng với các màu xanh, đỏ, vàng. Đi theo sau là các đoàn thể, các bản hội, quần chúng nhân dân và du khách thập phương. Lễ rước được diễn ra theo đúng nghi thức truyền thống. Vào những ngày lễ hội, các bản hội, bà con du khách thập phương đến tế lễ đông nườm nượp từ ngoài vào trong. Để đặt được lễ cầu cúng hoặc để đọc được sớ và cầu cúng theo bản hội hay hầu bóng cũng không hề dễ chút nào. Nhiều người đặt được lên ban thờ rồi khấn vái nhanh để người sau còn làm lễ. Thậm chí nhiều người phải đứng ngoài bái vọng vào. Có thể nói lễ hội Phủ Suối thật giản đơn và không gò bó bởi bất kể luật lệ hay thủ tục phiền toái nào. Tất cả những người đến đây chỉ cốt làm sao được cúng lễ để cầu Thánh Mẫu ban cho những điều tốt đẹp mà mình mong muốn. Ngoài việc đi lễ, họ còn được xem hầu bóng, hát văn về các giá đồng: Thánh Mẫu, Quan Hoàng, Quan Lớn, Cô Chín...

(còn nữa)

                                                                     Tác giả Thạc sĩ Phùng Quang Trung

 

Tags:

Bài viết khác

Lễ hội Katê lung linh sắc màu văn hóa Chăm

Trong tín ngưỡng dân gian của đồng bào dân tộc Chăm có nhiều lễ hội, với những nghi thức tín ngưỡng độc đáo, như: Lễ Cầu đảo với nghi lễ truyền thống mở cửa biển, gợi những ký ức về biển của người Chăm; hay Lễ hội Ka tê đã được Nhà nước công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể Quốc gia… Không gian lễ hội của cộng đồng người Chăm luôn ngập tràn sắc màu văn hóa, từ trang phục, nhạc cụ, điệu múa truyền thống… đến tín ngưỡng dân gian.

Ngôi chùa Khmer xây bằng đá granit nằm ở độ cao 45m, được ví như chốn ‘bồng lai tiên cảnh’ giữa núi rừng

Đây là ngôi chùa có lối kiến trúc chứa đựng nhiều huyền tích của đồng bào dân tộc Khmer.

Sống động di sản văn hóa Óc Eo tại Bảo tàng Bà Rịa Vũng Tàu dịp lễ 2/9

Gần 400 hình ảnh, hiện vật, di sản văn hóa Óc Eo đang được trưng bày sống động tại Bảo tàng tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, thể hiện góc nhìn khái quát, giá trị quý về một trong ba nền văn hóa cổ tiêu biểu của Việt Nam.

Nghề đan võng ngô đồng được công nhận Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia

Nghề thủ công truyền thống đan võng ngô đồng Cù Lao Chàm (đảo Cù Lao Chàm, xã Tân Hiệp, thành phố Hội An, Quảng Nam) được công nhận Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

Một di tích tại Bà Rịa - Vũng Tàu được xếp hạng cấp quốc gia

Bà Rịa - Vũng Tàu tổ chức công bố quyết định xếp hạng Di tích Quốc gia đối với "Di tích lịch sử địa điểm trận chiến ngày 6.6.1969 tại Bình Ba" trên địa bàn.

Tháp Bình Sơn - Ngọn tháp bằng đất nung cao nhất còn lại tới ngày nay

Kiến trúc tháp Bình Sơn mang dấu ấn độc đáo, dù được xây dựng từ thời Lý-Trần vẫn còn giữ được hầu như nguyên vẹn, và là ngọn tháp cao nhất được xây dựng bằng đất nung còn lại cho tới ngày nay.

Những ngôi chùa nổi tiếng tại Việt Nam, điểm đến tâm linh của khách thập phương

Những ngôi chùa tại Việt Nam không chỉ là nơi thờ cúng linh thiêng, giữ vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của người dân mà còn là những công trình kiến trúc tuyệt đẹp, thu hút du khách từ khắp nơi trên thế giới. Dưới đây là những ngôi chùa nổi tiếng tại Việt Nam, mỗi ngôi chùa đều mang một nét đặc trưng riêng biệt và lịch sử lâu đời.

Nghề dệt của người Lự ở Bản Hon

Từ bao đời nay, người Lự ở xã Bản Hon, huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu coi nghề dệt thổ cẩm truyền thống là thước đo đánh giá sự khéo léo, đảm đang của người phụ nữ. Vì thế khung cửi dệt thổ cẩm truyền thống là vật dụng quan trọng không thể thiếu trong gia đình người Lự.
Top