banner 728x90

BÀI 2: Lễ hội Phủ Suối Mỹ Quan (18/3 âm lịch)

03/04/2024 Lượt xem: 2739

Phủ Suối Mỹ Quan (xã Hà Vinh,  huyện Hà Trung tỉnh Thanh Hóa) tọa lạc trên một khu đất rộng rãi thoáng đãng, dưới những tán cây cổ thụ xanh mát, giữa không gian đồng ruộng bát ngát mía, ngô thanh bình, yên ả. Không chỉ vậy, phủ Suối còn nằm trong quần thể di tích thắng cảnh của dãy Tam Điệp - Bỉm Sơn chạy ra cửa biển Thần Phù xưa theo tuyến sông Hoạt. Phủ Suối cách Đền Sòng, Chín Giếng về phía Tây khoảng 7 km theo chim bay, cách chùa Thanh Vân trong bán kính chưa đầy 1 km; theo đường thủy trên sông Hoạt khoảng 3-4 km là đến cụm di tích thắng cảnh của động Lục Vân thơ mộng và bên bờ nam là đền thờ Áp Lãng Chân Nhân La Viện và không xa là đến động Bạch Á đã được các tao nhân mặc khách đề thơ trên vách núi... Tất cả đã tạo cho vùng này một không gian văn hóa, lịch sử đậm nét, có sức hấp dẫn đối với nhân dân địa phương, du khách thập phương đến thăm và tìm hiểủ.

Tên Phủ Suối được người dân xã Hà Vinh, huyện Hà Trung giải thích một cách đơn giản rằng do phủ nằm sát chân núi phía Nam của dãy Tam Điệp thuộc làng Mỹ Quan. Đây là phủ thờ Thánh Mẫu Đệ Nhất Thượng Thiên Liễu Hạnh, phủ được xây dựng bên cạnh dòng suối ngầm bắt nguồn từ trong lòng núi đá chảy ra, vì thế mà di tích có tên gọi là Phủ Suối. Phủ Suối nằm trong bộ Cửu Chân của nhà nước Văn Lang thời các Vua Hùng dựng nước, vào thời kỳ đó Mỹ Quan trang thuộc huyện Tư Phố đã có vị trí trọng yếu không chỉ về mặt vị trí địa lý mà còn cả trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa của quận Cửu Chân. Dưới thời Tam quốc – Lương Tấn – Nam Bắc Triều (từ năm 210 – 581). Thanh Hóa vẫn được gọi là quận Cửu Chân, mảnh đất Mỹ Quan – Hà Vinh (Hà Trung) thuộc huyện Kiến Sơ. Thời thuộc nhà Tùy – Đường (581 – 907), vùng đất Hà Trung trong đó có xã Hà Vinh lại thuộc về huyện Nhật Nam. Dưới triều Đinh – Tiền Lê – Lý. Năm Thiên Thành thứ 2 (1029), vua Lý Thái Tông đổi châu Ái thành phủ Thanh Hóa, Hà Trung vẫn là vùng đất thuộc huyện Sùng Bình và Nhật Nam, dưới huyện là các xã, hương, trang ấp. Làng Mỹ Quan có tên gọi là Hợp Hòa trang. Thời Trần – Hồ, vua Trần Thuận Tông, niên hiệu Quang Thái năm thứ 10 (1889-1907).

Theo các cụ cao niên truyền lại thì Phủ Suối trước kia có hàng chục đạo sắc của các triều vua ban tặng nhưng khu phủ bị phá thì hệ thống sắc phong cũng như đồ thờ tự bị thất tán. Hiện nay, chỉ còn lại 1 đạo sắc ngày 25 tháng 7, niên hiệu Khải Định năm thứ 9 (1924). Phủ Suối có lịch sử xây dựng cách ngày nay hàng trăm năm, và việc thờ phụng vị thần đã thành tục lệ truyền thống của bà con nhân dân nơi đây, được triều đình phong kiến sắc phong ghi nhận. Qua đó cho thấy Phủ Suối có thể được xây dựng vào khoảng thế kỷ XVI. Tuy nhiên theo dấu ấn kiến trúc phần hậu cung của phủ được xây theo kiểu cuốn vòm nên có thể đến thời Nguyễn thì phủ đã được tu sửa lại, bởi kiểu kiến trúc cuốn vòm mang phong cách thời Nguyễn.

Trước khi bị phá, di tích có kết cấu kiến trúc theo kiểu Tiền Nhất Hậu Đinh, gồm có các ngôi nhà tiền đường, trung đường và hậu cung. Tuy nhiên cũng như trong tình trạng nhiều di tích khác, vào những năm 1952 - 1953 Phủ Suối bị phá, hệ thống đồ thờ, tượng, sắc phong bị thất tán nhiều nơi, gỗ lạt, gạch ngói mang đi xây dựng các công trình phúc lợi khác. Trong nhiều năm qua, để đáp ứng được nhu cầu tâm linh của người dân, với tấm lòng hảo tâm của con em địa phương trong và ngoài tỉnh, cùng với du khách thập phương quyên góp ủng hộ, Phủ Suối đã được đầu tư xây dựng thêm nhiều hạng mục. Con đường vào Phủ Suối giờ đây đã được mở rộng khang trang và đổ bê tông sạch sẽ, khuôn viên, tường rào, sân vườn cũng đang được xây dựng từng bước để tránh sự xâm hại đến di tích. Đồng thời tạo cảnh quan môi trường sạch sẽ, thoáng mát cho Phủ Suối, tạo sức hấp dẫn cho du khách xa gần đến hành hương vãn cảnh.

Thạc sĩ  Phùng Quang Trung và Du khách

Tại Phủ Suối, ngoài ngày lễ, thì các ngày thường, đặc biệt là ngày rằm, mồng một, Phủ vẫn liên tục có người đến cầu cúng. Nhưng chỉ trong những ngày hội, chính hội tổ chức vào ngày 18/3 ÂL thì người đến mới đông. Tại đây diễn ra đội rước kiệu gồm 12 người khiêng cỗ kiệu Long Đình từ đình làng về Phủ gọi là lễ rước sắc (vì sắc phong được cất giữ ở đình làng). Đội khiêng kiệu và lọng, tàn, cờ quạt, biển bài, chấp kích bát bửu... trong trang phục áo đỏ, quần đỏ, chít khăn đỏ và đi hia. Tiếp sau kiệu là đến các ông từ, các cụ phụ lão trong trang phục áo theo khăn xếp, các cụ trong ban khánh tiết mặc trang phục áo thụng với các màu xanh, đỏ, vàng. Đi theo sau là các đoàn thể, các bản hội, quần chúng nhân dân và du khách thập phương. Lễ rước được diễn ra theo đúng nghi thức truyền thống. Vào những ngày lễ hội, các bản hội, bà con du khách thập phương đến tế lễ đông nườm nượp từ ngoài vào trong. Để đặt được lễ cầu cúng hoặc để đọc được sớ và cầu cúng theo bản hội hay hầu bóng cũng không hề dễ chút nào. Nhiều người đặt được lên ban thờ rồi khấn vái nhanh để người sau còn làm lễ. Thậm chí nhiều người phải đứng ngoài bái vọng vào. Có thể nói lễ hội Phủ Suối thật giản đơn và không gò bó bởi bất kể luật lệ hay thủ tục phiền toái nào. Tất cả những người đến đây chỉ cốt làm sao được cúng lễ để cầu Thánh Mẫu ban cho những điều tốt đẹp mà mình mong muốn. Ngoài việc đi lễ, họ còn được xem hầu bóng, hát văn về các giá đồng: Thánh Mẫu, Quan Hoàng, Quan Lớn, Cô Chín...

(còn nữa)

                                                                     Tác giả Thạc sĩ Phùng Quang Trung

 

Tags:

Bài viết khác

Tháp Bánh Ít – Kiệt tác kiến trúc Chăm Pa giữa miền đất võ Bình Định

Nằm trên ngọn đồi thuộc thôn Đại Lộc, xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định (nay là xã Tuy Phước 3, tỉnh Gia Lai), Tháp Bánh Ít là quần thể kiến trúc Chăm Pa cổ có niên đại gần một thiên niên kỷ. Với vẻ đẹp hùng vĩ, tinh xảo và giàu giá trị lịch sử – văn hóa, công trình được xem là kiệt tác kiến trúc tiêu biểu của nền văn minh Chăm Pa, đồng thời là một trong những điểm đến nổi bật của du lịch miền Trung.

Đào Cam Mộc – Từ công thần triều Lý đến Thánh Tổ làng Đào Xá

Thái sư Á Vương Đào Cam Mộc, người có công đầu đưa Lý Công Uẩn lên ngôi Thái Tổ nhà Lý (1009), và dời đô từ Hoa Lư về Thành Đại La, lập kinh đô mới, đặt tên là Thăng long (1010), mở đầu một kỷ nguyên văn hiến, cường thịnh của nước Đại Việt, kéo dài suốt 216 năm (1009 – 1225). Thái sư Á Vương Đào Cam Mộc đã có công đức, đưa người từ các vùng đến khai khẩn đất hoang, dựng nhà, đào kênh, mở đường, lập ra làng Đào Xá – xã Hoàng Long – huyện Phú Xuyên – Hà Nội ngày nay.

Thái sư Á Vương Đào Cam Mộc: Đệ nhất khai quốc công thần triều Lý

Trong số những người có công đưa Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế, Thái sư Á Vương Đào Cam Mộc và nhà sư Vạn Hạnh được xếp là Đệ nhất Khai quốc công thần triều đình nhà Lý.

Nước Mắm Phú Quốc – Tinh Hoa Di Sản Văn Hóa Phi Vật Thể Quốc Gia

Nghề làm nước mắm Phú Quốc khởi nguồn từ thế kỷ XIX, khi nghề đánh cá ven biển dần gắn liền với quá trình chế biến nước mắm. Theo một số tài liệu của người Pháp, Phú Quốc đã sớm trở thành trung tâm sản xuất nước mắm lớn của Việt Nam. Đến nay, nghề truyền thống này vẫn tiếp tục được duy trì và phát triển, đóng góp vào đời sống của hàng ngàn cư dân trên đảo.

Mẹ Nam Hải Bạc Liêu – Chốn Thiêng Liêng Giữa Biển Trời Nam Bộ

Bạc Liêu – Không chỉ được biết đến với giai thoại về công tử hào hoa hay những cánh đồng điện gió nối dài đến tận chân trời, Bạc Liêu còn là điểm dừng chân tâm linh của hàng vạn du khách và Phật tử thập phương. Trong đó, Phật Bà Nam Hải – hay còn được người dân thân thương gọi là Mẹ Nam Hải – hiện lên như một biểu tượng thiêng liêng, chốn hành hương linh nghiệm bậc nhất miền Tây Nam Bộ.

Miếu Nổi Phù Châu – Di tích tâm linh độc đáo giữa lòng sông Vàm Thuật

Nằm biệt lập trên cù lao giữa sông Vàm Thuật, Miếu Nổi Phù Châu không chỉ là một địa điểm tín ngưỡng linh thiêng, mà còn là công trình kiến trúc mang đậm dấu ấn văn hóa Việt – Hoa, hiếm có giữa lòng đô thị Sài Gòn hiện đại.

Tượng Chúa Kitô Vua – Biểu tượng tâm linh và điểm đến nổi bật của Vũng Tàu

Nằm trên đỉnh Núi Nhỏ (còn gọi là núi Tao Phùng), phường Vũng Tàu, TP. Hồ Chí Minh, tượng Chúa Kitô Vua từ lâu đã trở thành một trong những công trình tôn giáo quy mô lớn và ấn tượng nhất Việt Nam. Không chỉ là điểm hành hương linh thiêng của giáo dân, nơi đây còn là biểu tượng du lịch nổi tiếng, thu hút hàng triệu lượt khách mỗi năm.

Ché – Hồn cốt của người dân đại ngàn Tây Nguyên

Giữa âm vang rộn rã của cồng chiêng – di sản văn hóa phi vật thể thế giới – những chiếc ché rượu cần lặng lẽ đứng đó, như linh hồn văn hóa của cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên.
Top