banner 728x90

BÀI 2: Lễ hội Phủ Suối Mỹ Quan (18/3 âm lịch)

03/04/2024 Lượt xem: 2611

Phủ Suối Mỹ Quan (xã Hà Vinh,  huyện Hà Trung tỉnh Thanh Hóa) tọa lạc trên một khu đất rộng rãi thoáng đãng, dưới những tán cây cổ thụ xanh mát, giữa không gian đồng ruộng bát ngát mía, ngô thanh bình, yên ả. Không chỉ vậy, phủ Suối còn nằm trong quần thể di tích thắng cảnh của dãy Tam Điệp - Bỉm Sơn chạy ra cửa biển Thần Phù xưa theo tuyến sông Hoạt. Phủ Suối cách Đền Sòng, Chín Giếng về phía Tây khoảng 7 km theo chim bay, cách chùa Thanh Vân trong bán kính chưa đầy 1 km; theo đường thủy trên sông Hoạt khoảng 3-4 km là đến cụm di tích thắng cảnh của động Lục Vân thơ mộng và bên bờ nam là đền thờ Áp Lãng Chân Nhân La Viện và không xa là đến động Bạch Á đã được các tao nhân mặc khách đề thơ trên vách núi... Tất cả đã tạo cho vùng này một không gian văn hóa, lịch sử đậm nét, có sức hấp dẫn đối với nhân dân địa phương, du khách thập phương đến thăm và tìm hiểủ.

Tên Phủ Suối được người dân xã Hà Vinh, huyện Hà Trung giải thích một cách đơn giản rằng do phủ nằm sát chân núi phía Nam của dãy Tam Điệp thuộc làng Mỹ Quan. Đây là phủ thờ Thánh Mẫu Đệ Nhất Thượng Thiên Liễu Hạnh, phủ được xây dựng bên cạnh dòng suối ngầm bắt nguồn từ trong lòng núi đá chảy ra, vì thế mà di tích có tên gọi là Phủ Suối. Phủ Suối nằm trong bộ Cửu Chân của nhà nước Văn Lang thời các Vua Hùng dựng nước, vào thời kỳ đó Mỹ Quan trang thuộc huyện Tư Phố đã có vị trí trọng yếu không chỉ về mặt vị trí địa lý mà còn cả trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa của quận Cửu Chân. Dưới thời Tam quốc – Lương Tấn – Nam Bắc Triều (từ năm 210 – 581). Thanh Hóa vẫn được gọi là quận Cửu Chân, mảnh đất Mỹ Quan – Hà Vinh (Hà Trung) thuộc huyện Kiến Sơ. Thời thuộc nhà Tùy – Đường (581 – 907), vùng đất Hà Trung trong đó có xã Hà Vinh lại thuộc về huyện Nhật Nam. Dưới triều Đinh – Tiền Lê – Lý. Năm Thiên Thành thứ 2 (1029), vua Lý Thái Tông đổi châu Ái thành phủ Thanh Hóa, Hà Trung vẫn là vùng đất thuộc huyện Sùng Bình và Nhật Nam, dưới huyện là các xã, hương, trang ấp. Làng Mỹ Quan có tên gọi là Hợp Hòa trang. Thời Trần – Hồ, vua Trần Thuận Tông, niên hiệu Quang Thái năm thứ 10 (1889-1907).

Theo các cụ cao niên truyền lại thì Phủ Suối trước kia có hàng chục đạo sắc của các triều vua ban tặng nhưng khu phủ bị phá thì hệ thống sắc phong cũng như đồ thờ tự bị thất tán. Hiện nay, chỉ còn lại 1 đạo sắc ngày 25 tháng 7, niên hiệu Khải Định năm thứ 9 (1924). Phủ Suối có lịch sử xây dựng cách ngày nay hàng trăm năm, và việc thờ phụng vị thần đã thành tục lệ truyền thống của bà con nhân dân nơi đây, được triều đình phong kiến sắc phong ghi nhận. Qua đó cho thấy Phủ Suối có thể được xây dựng vào khoảng thế kỷ XVI. Tuy nhiên theo dấu ấn kiến trúc phần hậu cung của phủ được xây theo kiểu cuốn vòm nên có thể đến thời Nguyễn thì phủ đã được tu sửa lại, bởi kiểu kiến trúc cuốn vòm mang phong cách thời Nguyễn.

Trước khi bị phá, di tích có kết cấu kiến trúc theo kiểu Tiền Nhất Hậu Đinh, gồm có các ngôi nhà tiền đường, trung đường và hậu cung. Tuy nhiên cũng như trong tình trạng nhiều di tích khác, vào những năm 1952 - 1953 Phủ Suối bị phá, hệ thống đồ thờ, tượng, sắc phong bị thất tán nhiều nơi, gỗ lạt, gạch ngói mang đi xây dựng các công trình phúc lợi khác. Trong nhiều năm qua, để đáp ứng được nhu cầu tâm linh của người dân, với tấm lòng hảo tâm của con em địa phương trong và ngoài tỉnh, cùng với du khách thập phương quyên góp ủng hộ, Phủ Suối đã được đầu tư xây dựng thêm nhiều hạng mục. Con đường vào Phủ Suối giờ đây đã được mở rộng khang trang và đổ bê tông sạch sẽ, khuôn viên, tường rào, sân vườn cũng đang được xây dựng từng bước để tránh sự xâm hại đến di tích. Đồng thời tạo cảnh quan môi trường sạch sẽ, thoáng mát cho Phủ Suối, tạo sức hấp dẫn cho du khách xa gần đến hành hương vãn cảnh.

Thạc sĩ  Phùng Quang Trung và Du khách

Tại Phủ Suối, ngoài ngày lễ, thì các ngày thường, đặc biệt là ngày rằm, mồng một, Phủ vẫn liên tục có người đến cầu cúng. Nhưng chỉ trong những ngày hội, chính hội tổ chức vào ngày 18/3 ÂL thì người đến mới đông. Tại đây diễn ra đội rước kiệu gồm 12 người khiêng cỗ kiệu Long Đình từ đình làng về Phủ gọi là lễ rước sắc (vì sắc phong được cất giữ ở đình làng). Đội khiêng kiệu và lọng, tàn, cờ quạt, biển bài, chấp kích bát bửu... trong trang phục áo đỏ, quần đỏ, chít khăn đỏ và đi hia. Tiếp sau kiệu là đến các ông từ, các cụ phụ lão trong trang phục áo theo khăn xếp, các cụ trong ban khánh tiết mặc trang phục áo thụng với các màu xanh, đỏ, vàng. Đi theo sau là các đoàn thể, các bản hội, quần chúng nhân dân và du khách thập phương. Lễ rước được diễn ra theo đúng nghi thức truyền thống. Vào những ngày lễ hội, các bản hội, bà con du khách thập phương đến tế lễ đông nườm nượp từ ngoài vào trong. Để đặt được lễ cầu cúng hoặc để đọc được sớ và cầu cúng theo bản hội hay hầu bóng cũng không hề dễ chút nào. Nhiều người đặt được lên ban thờ rồi khấn vái nhanh để người sau còn làm lễ. Thậm chí nhiều người phải đứng ngoài bái vọng vào. Có thể nói lễ hội Phủ Suối thật giản đơn và không gò bó bởi bất kể luật lệ hay thủ tục phiền toái nào. Tất cả những người đến đây chỉ cốt làm sao được cúng lễ để cầu Thánh Mẫu ban cho những điều tốt đẹp mà mình mong muốn. Ngoài việc đi lễ, họ còn được xem hầu bóng, hát văn về các giá đồng: Thánh Mẫu, Quan Hoàng, Quan Lớn, Cô Chín...

(còn nữa)

                                                                     Tác giả Thạc sĩ Phùng Quang Trung

 

Tags:

Bài viết khác

Khám phá khu di tích lịch sử văn hóa ngàn năm tuổi ở Bà Rịa – Vũng Tàu

Giữa miền đất Long Điền (Bà Rịa – Vũng Tàu) chan hòa nắng gió, khu di tích lịch sử – văn hóa Bàu Thành sừng sững như một nhân chứng lặng lẽ hàng nghìn năm lịch sử. Nơi đây, từng lớp dấu tích cổ xưa hòa quyện cùng nhịp sống hiện đại, tạo thành điểm đến độc đáo vừa gợi trí tò mò vừa làm dậy lên lòng tự hào về một vùng biên viễn oai hùng.

Lễ hội chùa Keo và 6 nghi thức độc đáo: Di sản văn hóa tâm linh Việt Nam

Nằm yên bình bên dòng sông Hồng thơ mộng, chùa Keo – tên chữ là Thần Quang Tự – tọa lạc tại xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Đây là một trong những ngôi chùa cổ kính, có giá trị lịch sử và nghệ thuật bậc nhất ở Việt Nam.

Làng nghề bánh tráng Trảng Bàng – Di sản văn hóa của người dân Nam Bộ

Nhắc đến Tây Ninh, người ta thường nghĩ ngay đến món bánh canh Trảng Bàng trứ danh. Thế nhưng, mảnh đất nắng gió này còn ẩn chứa một di sản văn hóa lâu đời: làng nghề bánh tráng phơi sương Trảng Bàng – nơi kết tinh tinh hoa ẩm thực và tâm hồn người dân Nam Bộ.

Người mở cõi – Vị khai quốc công thần đất Đồng Nai

Cách đây 327 năm, vào mùa xuân năm 1698, theo lệnh Chúa Nguyễn Phúc Chu, Chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh dẫn binh thuyền xuôi dòng sông Sài Gòn rồi ngược dòng Đồng Nai, đặt chân đến vùng Cù Lao Phố. Với tầm nhìn chiến lược và phẩm chất của một nhà kiến thiết, ông đã nhanh chóng thiết lập dinh Trấn Biên, ổn định trật tự, khai sinh hệ thống hành chính cho vùng đất hoang hóa rộng lớn, mở đầu cho quá trình xác lập chủ quyền của Đàng Trong trên phần đất Nam Bộ ngày nay.

Lăng Văn Sơn: Nét chạm của di sản trong đô thị hiện đại

Giữa nhịp phát triển sôi động của vùng Tây Hà Nội, Lăng Văn Sơn – di tích lịch sử quốc gia tại xã Tân Hội, huyện Đan Phượng – vẫn là biểu tượng văn hóa, điểm tựa tâm linh và niềm tự hào của người dân địa phương. Nơi đây không chỉ gắn với vị tướng Văn Dĩ Thành – người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống quân Minh vào đầu thế kỷ XV – mà còn lưu giữ những giá trị trường tồn của vùng đất Tổng Gối anh hùng.

Hình tượng Dê trong văn hóa thế giới và nghệ thuật truyền thống Việt Nam.

Hình tượng con dê là một biểu tượng phổ biến trong nhiều nền văn hóa trên thế giới, với ý nghĩa đa dạng từ tôn giáo, triết lý đến nghệ thuật và tín ngưỡng dân gian. Tại Việt Nam, con dê không chỉ là động vật quen thuộc trong đời sống nông nghiệp mà còn giữ vị trí biểu tượng trong nghệ thuật tạo hình và kiến trúc truyền thống.

Bảo tàng – Thư viện Bà Rịa - Vũng Tàu: Hành trình đưa di sản văn hoá đến gần hơn với du khách

Không chỉ lưu giữ ký ức, di sản văn hóa còn là nhịp cầu kết nối giữa quá khứ và hiện tại, giữa người dân và quê hương, giữa du khách và những câu chuyện lịch sử tưởng như đã lùi xa. Ở thành phố du lịch biển Vũng Tàu – hành trình ấy đang được tiếp nối sáng tạo và nhân văn qua nỗ lực không ngừng của Bảo tàng – Thư viện tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Ý nghĩa biểu tượng của tượng Phật Bà Quan Âm nghìn tay nghìn mắt - Di sản vô giá của dân tộc

Sự sùng bái Bồ tát Quan Âm có liên quan mật thiết đến sự phát triển của Tịnh độ tông và Mật tông, cụ thể là tư tưởng “Tịnh Mật hợp nhất”. Chính tại thời điểm giao thoa của hai tông này mà sức sáng tạo các hình tượng Bồ tát Quan Âm ngày càng trở nên phong phú, đa dạng.
Top