banner 728x90

Tín ngưỡng thờ Thiên Hậu

04/05/2024 Lượt xem: 2957

Tín ngưỡng thờ Bà Thiên Hậu đã trở thành một dạng tín ngưỡng thờ Mẫu khá phổ biến tại đồng bằng Nam Bộ. Tục thờ này cùng với nhiều hoạt động văn hóa – nghệ thuật và các khía cạnh văn hóa vật thể gắn liền với nó đã sớm trở thành một “kho tàng” văn hóa dân gian, ở đây họ gìn giữ linh hồn của truyền thống,  cũng xem như là một kênh giáo dục đạo đức.

Bắt nguồn từ Phúc Kiến (Trung Quốc) sự linh ứng của bà Thiên Hậu được lan truyền sang các tỉnh lân cận ven biển của Chiết Giang và Quảng Đông, phần eo biển Đài Loan và đến tất cả các khu vực ven biển của Trung Quốc đại lục. Với sự di cư của người Trung Quốc trong thế kỷ 19 và 20, sự thờ phụng tiếp tục lan truyền sang Đài Loan, Việt Nam, Nhật Bản và cả Đông Nam Á; bà Thiên Hậu cũng dược xem là thần bảo trợ của các vùng biển và những người nhập cư mới đến thường dựng lên ngôi đền cho Bà đầu tiên, cảm tạ ơn cho đến nơi an toàn. Ngày nay, sự thờ phụng Thiên Hậu cũng tìm thấy ở những nước khác có số dân đáng kể đến từ những khu vực này. Tổng cộng, có khoảng 1.500 ngôi đền Thiên Hậu ở 26 quốc gia trên thế giới .

Tín ngưỡng thờ Bà Thiên Hậu đã theo chân người Hoa di dân đến Việt Nam từ hàng trăm năm trước 

Trong bất kì hoạt động lễ hội nào diễn ra ở các miếu Thiên Hậu, người Việt đều tham gia với tất cả lòng cung kính, nhiệt thành. Và vì thế, để phục vụ đông đảo các tín đồ người Hoa và người Việt, ở nhiều miếu Thiên Hậu người ta tổ chức tế lễ và hát tuồng bằng tiếng phổ thông – tiếng Việt (Võ Văn Hoàng 2009). Tại Tp. Hồ Chí Minh và Đông Nam Bộ, hiện tượng đi viếng chùa Bà Thiên Hậu tại Bình Dương những ngày đầu năm mới âm lịch đã trở thành một phong tục quan trọng trong năm. Trong những ngày ấy, số thiện nam tín nữ người Việt đến viếng chiếm đại đa số, mỗi ngày có đến hàng ngàn người, náo nhiệt hơn hẳn những cơ sở tín ngưỡng – tôn giáo của chính người Việt. Ở cộng đồng Khmer Nam Bộ vùng Vĩnh Châu và nhiều nơi khác ở bán đảo Cà Mau, người ta cung kính thờ Thiên Hậu tại gia đình cùng với tổ tiên mình (Trần Hồng Liên 2006). Trong các lễ hội gắn liền với miếu Thiên Hậu tại địa phương, người Khmer cũng tham gia nhiệt tình như người Hoa và người Việt.

Tín ngưỡng thờ Thiên Hậu đóng một vai trò rất quan trọng trong đời sống của cộng đồng người Hoa ở Nam bộ, chính vì thế, miếu Thiên Hậu cũng được coi là “ngôi nhà chung” nên thường được xây dựng quy mô, trang trí công phu. Ở đó, quan niệm về thế giới quan, nhân sinh quan, về đạo đức cũng như lối sống của người Hoa được thể hiện sâu sắc, cũng cho thấy cách thức người Hoa bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời gian cộng cư, giao lưu, tiếp biến văn hóa với một số tộc người khác tại quê hương thứ hai.

Trải qua bao thăng trầm lịch sử cộng cư với người Việt, tín ngưỡng thờ bà Thiên Hậu không những đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống văn hóa – tâm linh trên quê hương thứ 2 của họ mà miếu Thiên Hậu và lễ hội ở đây còn là điểm đến của người Việt với lòng thành kính, chân thành có sự tương đồng, gần gũi về văn hóa; Hình thành nên sự giao thoa, tiếp biến văn hóa, làm nên tính cộng đồng Hoa Việt trong lịch sử khai mở đất phương Nam. Cùng với quá trình dung hợp văn hóa đa tộc người trong suốt ba trăm năm qua, tín ngưỡng Thiên Hậu dần dà hấp thụ các yếu tố văn hóa khác từ các cộng đồng Việt, Khmer, Chăm để làm giàu thêm phong tục của mình, đồng thời biến tục thờ Thiên Hậu thành một biểu tương giao lưu văn hóa sinh động tại Nam Bộ. Hiện tượng giao thoa văn hóa qua tục thờ Thiên Hậu có thể được xem là một mẫu hình của sự chung sống chan hòa và gắn bó các tộc người nhằm hướng tới sự phát triển mang tính bền vững tại vùng đất Nam Bộ Việt Nam.

Ban Nghiên cứu Văn hóa

 

 

Tags:

Bài viết khác

Đền thờ Mẫu - Chốn linh thiêng ở kỳ quan Đèo Ngang

Nằm trên hành trình thiên lý Bắc – Nam, Đền thờ Mẫu Liễu Hạnh đã trở thành điểm đến tâm linh đầy huyền bí. Qua bao cuộc biến thiên, tích xưa “Công chúa Quỳnh Hoa giáng trần giúp dân bản tránh khỏi nạn dịch, xua đuổi thú dữ, dạy người trồng lúa…” vẫn trường tồn ở vùng đất sơn thủy hữu tình này.

Cúng, khấn, vái và lạy trong nghi lễ thờ cúng

Khi cúng thì chủ gia đình phải bầy đồ lễ cùng với hoa quả theo nguyên tắc “đông bình tây quả,” rượu, và nước. Sau đó, phải đốt đèn (đèn dầu, đèn cầy, hay đèn điện), thắp nhang, đánh chuông, khấn, và cúng trước rồi những người trong gia đình theo thứ tự trên dưới cúng sau. Nhang (hương) đèn để mời và chuông để thỉnh tổ tiên. Khi cúng thì phải chắp tay đưa lên ngang trán khấn. Khấn là lời trình với tổ tiên về ngày cúng liên quan đến tên người quá cố

Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương: Bản sắc văn hóa của người Việt Nam

Việc thờ cúng Hùng Vương đã ăn sâu, lan tỏa rộng khắp, nơi đâu có người Việt sinh sống thì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên - thờ các vua Hùng được người Việt tôn vinh và thờ tự.

Nhạc cụ truyền thống trong hát Chầu Văn

Hát Chầu văn hay còn được gọi là hát văn hay hát hầu đồng là một loại hình nghệ thuật ca hát cổ truyền và một phần tín ngưỡng thờ Mẫu của văn hóa Việt Nam. Đây là hình thức lễ nhạc gắn liền với nghi thức hầu đồng của tín ngưỡng Tứ phủ (tín ngưỡng thờ Mẫu) và tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần (Trần Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuần), một tín ngưỡng dân gian Việt Nam.

Nét văn hóa tâm linh trong kiến trúc nhà thờ họ

Kiến trúc nhà thờ họ là biểu tượng vật chất đậm nét văn hóa phi vật thể của các tộc họ ở Việt Nam. Đây là nơi lưu giữ giá trị, tổ chức, quan hệ, và thành tựu của mỗi dòng tộc qua nhiều thế hệ. Theo truyền thống, nhà thờ họ thường được xây dựng theo cấu trúc đơn giản nhưng hài hòa, mang đậm nét riêng của văn hóa dân gian.

Vai trò và ý nghĩa của nhà thờ họ tại Việt Nam

Nhà thờ tổ hay từ đường là một ngôi nhà dành riêng cho việc thờ cúng tổ tiên của một dòng họ hay từng chi họ tính theo phụ hệ (dòng của cha). Nhà thờ họ phổ biến trong văn hóa người Việt tại khu đồng bằng và trung du Bắc Bộ và Trung Bộ.

Tứ quý trong tranh dân gian Đông Hồ

Tranh Tứ quý thuộc loại tứ bình (bốn bức) khổ lớn, vẽ cảnh tứ thời: Xuân, hạ, thu, đông. Mỗi mùa có một loài cây, loài hoa đặc trưng. Mùa xuân: hoa mai, hoa lan, hoa đào. Mùa hạ: hoa sen, hoa hồng, hoa lựu. Mùa thu: hoa cúc, hoa phù dung. Mùa đông: cây trúc, cây thông (tùng).

Cỗ và mâm cỗ truyền thống của người Việt

Mâm cỗ ở mỗi vùng quê Việt Nam có hương vị riêng nhưng bao giờ cũng vậy, mỗi mâm có 4 hoặc 6 người. Thông thường người ta kiêng ngồi 5 người, ở mâm cỗ có ít nhất hai người thân nhau, cũng có khi 3 cặp đều thân nhau thành một cỗ. Người nhà chủ tế nhị mời những người ăn ý với nhau vào một cỗ, sàn sàn lứa tuổi với nhau vào cùng mâm. Những người có tửu lượng mạnh hoặc nhẹ vào một cỗ, những người bằng vai phải lứa với nhau vào một cỗ. Đàn ông vào cỗ với nhau, còn đàn bà ngồi với đàn bà.
Top