banner 728x90

Tứ quý trong tranh dân gian Đông Hồ

16/03/2025 Lượt xem: 2387

Tranh Tứ quý thuộc loại tứ bình (bốn bức) khổ lớn, vẽ cảnh tứ thời: Xuân, hạ, thu, đông. Mỗi mùa có một loài cây, loài hoa đặc trưng. Mùa xuân: hoa mai, hoa lan, hoa đào. Mùa hạ: hoa sen, hoa hồng, hoa lựu. Mùa thu: hoa cúc, hoa phù dung. Mùa đông: cây trúc, cây thông (tùng).

Ảnh minh họa.

Một năm có bốn mùa. Mỗi mùa có ba tháng, gọi theo thứ tự là mạnh, trọng, quý. Tứ quý là bốn tháng cuối của bốn mùa. Tháng ba: Quý xuân. Tháng sáu: Quý hạ. Tháng chín: Quý thu. Tháng mười hai (chạp): Quý đông.

Tranh Tứ quý thuộc loại tứ bình (bốn bức) khổ lớn, vẽ cảnh tứ thời: Xuân, hạ, thu, đông. Mỗi mùa có một loài cây, loài hoa đặc trưng. Mùa xuân: hoa mai, hoa lan, hoa đào. Mùa hạ: hoa sen, hoa hồng, hoa lựu. Mùa thu: hoa cúc, hoa phù dung. Mùa đông: cây trúc, cây thông (tùng). Mỗi loài hoa, loài cây lại tương ứng với một loài chim. Vẽ hoa ấy phải đi với chim ấy mới là đúng quy tắc, đúng luật. Như vẽ hoa mai phải vẽ với chim khổng tước (mai/điểu), hoa hồng với chim công (hồng/công), hoa cúc với gà (kê/cúc), cây thông với chim hạc (tùng/hạc) v.v...

Tuy nhiên cảnh phải có tình mới là họa phẩm hoàn thiện. Nếu không có tình hoặc có mà người xem không cảm, thì dẫu cho cảnh đẹp, màu tươi vẫn là bức vẽ không hồn. Mà tình thì chẳng ai giống ai, khi vui khi buồn cũng khác. Khó vô cùng hướng tình cảm mọi người vào mẫu số chung!

Người nghệ sĩ dân gian Đông Hồ đã giải quyết vấn đề này một cách thông minh, sáng tạo. Trên mỗi bức tranh vẽ cây hoa, chim chóc, đề một câu thơ nêu bật chủ đề. Tranh và thơ hòa quyện với nhau như một thể hữu cơ. Thơ là tranh bằng lời. Tranh là thơ bằng đường nét. Có nhiều tác giả vẽ tranh Tứ quý. Mỗi người vẽ lại thay đổi đôi chút về mẫu mã. Thơ đề tranh do đó có nhiều bài. Bài dưới đây được bình chọn đặc sắc nhất:

Xuân thiên mai nhụy phô thanh bạch

Hạ nhật hồng hoa đấu hảo kỳ

Cúc ngạo thu tình hương vạn hộc

Tùng lăng đông tuyết ngọc thiên chi.

Bốn câu thơ trên nếu chỉ hiểu nghĩa thông thường đã thấy hay song chưa thấy ý vị của nó. Trời xuân mai nở phô trong trắng. Trong trắng chưa diễn tả hết nghĩa của thanh bạch. Hoa mai tượng trưng cho sự thanh cao, tinh khiết. Chu Thần Cao Bá Quát “Cả đời chỉ cúi đầu lạy hoa mai” (Nhất sinh đê thủ bái mai hoa ). Ngày hạ hoa hồng đua vẻ đẹp, vẻ lạ. Hoa hồng rực rỡ, tươi trẻ, tượng trưng cho tình yêu là “Bà chúa của trái tim”. Hoa hồng có gai như tình yêu đầy thử thách. Mùa thu hoa cúc cho vạn hộc hương.

Hương thơm hoa cúc là hương thơm tâm hồn người cao sĩ, sống ẩn dật, xa lánh danh lợi bon chen. Ngắm hoa cúc lại nhớ Thiền sư, thi sĩ, Tam tổ Trúc Lâm Huyền Quang “Trong núi hết năm không có lịch/Cúc vàng đua nở mách trùng dương” (Tuế vãn sơn trung vô lịch nhật/Cúc hoa khai xứ tức trùng dương). Tiết trùng dương uống rượu hoa cúc, nhằm ngày mồng chín tháng chín âm lịch. Mùa đông tuyết phủ nghìn cành tùng như ngọc. Trúc tượng trưng cho người quân tử. Tùng tượng trưng cho bậc trượng phu. Tùng ngạo nghễ coi khinh giá rét. Tuyết đông càng làm cho vẻ ngọc của tùng cứng cỏi, kiêu hãnh. Ngất ngưởng như nhà thơ Nguyễn Công Trứ vẫn hằng ao ước: “Kiếp sau xin chớ làm người/Làm cây thông đứng giữa trời mà reo”. Tùng, trúc, mai, ba cây tiêu biểu chịu lạnh mùa đông, người xưa gọi là “Tuế hàn tam hữu”. Ba bạn khí tiết ấy đều có mặt trong tranh Tứ quý.

Đọc thơ rồi lại ngắm tranh. Ngắm tranh để lĩnh hội ý thơ. Vẻ đẹp thiên nhiên sinh động, đầy âm thanh, màu sắc, cộng với ý thơ hàm xúc, thể hiện trong bộ tranh Tứ quý, giúp tâm hồn người xem thư giãn, nhẹ nhàng, sau những mưu sinh vất vả. Xem tranh chẳng những tầm nhìn được mở rộng mà tâm hồn cũng thêm phong phú. Chính những điều ấy đã làm nên sức hấp dẫn kỳ diệu của tranh dân gian Đông Hồ nói chung, tranh Tứ quý nói riêng.

Nguồn:quehuongonline.vn

 

Tags:

Bài viết khác

Nhạc cụ truyền thống trong hát Chầu Văn

Hát Chầu văn hay còn được gọi là hát văn hay hát hầu đồng là một loại hình nghệ thuật ca hát cổ truyền và một phần tín ngưỡng thờ Mẫu của văn hóa Việt Nam. Đây là hình thức lễ nhạc gắn liền với nghi thức hầu đồng của tín ngưỡng Tứ phủ (tín ngưỡng thờ Mẫu) và tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần (Trần Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuần), một tín ngưỡng dân gian Việt Nam.

Nét văn hóa tâm linh trong kiến trúc nhà thờ họ

Kiến trúc nhà thờ họ là biểu tượng vật chất đậm nét văn hóa phi vật thể của các tộc họ ở Việt Nam. Đây là nơi lưu giữ giá trị, tổ chức, quan hệ, và thành tựu của mỗi dòng tộc qua nhiều thế hệ. Theo truyền thống, nhà thờ họ thường được xây dựng theo cấu trúc đơn giản nhưng hài hòa, mang đậm nét riêng của văn hóa dân gian.

Vai trò và ý nghĩa của nhà thờ họ tại Việt Nam

Nhà thờ tổ hay từ đường là một ngôi nhà dành riêng cho việc thờ cúng tổ tiên của một dòng họ hay từng chi họ tính theo phụ hệ (dòng của cha). Nhà thờ họ phổ biến trong văn hóa người Việt tại khu đồng bằng và trung du Bắc Bộ và Trung Bộ.

Cỗ và mâm cỗ truyền thống của người Việt

Mâm cỗ ở mỗi vùng quê Việt Nam có hương vị riêng nhưng bao giờ cũng vậy, mỗi mâm có 4 hoặc 6 người. Thông thường người ta kiêng ngồi 5 người, ở mâm cỗ có ít nhất hai người thân nhau, cũng có khi 3 cặp đều thân nhau thành một cỗ. Người nhà chủ tế nhị mời những người ăn ý với nhau vào một cỗ, sàn sàn lứa tuổi với nhau vào cùng mâm. Những người có tửu lượng mạnh hoặc nhẹ vào một cỗ, những người bằng vai phải lứa với nhau vào một cỗ. Đàn ông vào cỗ với nhau, còn đàn bà ngồi với đàn bà.

Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ Việt Nam

Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều mang trong mình những nét văn hóa riêng. Văn hóa là cái gốc cho sự phát triển, phồn thịnh của một đất nước. Việt Nam là một dân tộc mang một nền văn hóa đậm đà bản sắc, đa dạng và phong phú. Tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam từ lâu đã đóng vai trò quan trọng đối với người dân Việt, văn hóa tín ngưỡng có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống xã hội và tâm thức người dân.

Tín ngưỡng dân gian trong lễ hội cổ truyền ở Việt Nam

Tín ngưỡng dân gian đóng vai trò quan trọng trong các lễ hội cổ truyền của Việt Nam, thể hiện bản sắc văn hóa, tâm linh và lòng tôn kính đối với các thế lực siêu nhiên, Tổ tiên, thần thánh. Bài viết tìm hiểu một số đặc điểm nổi bật về tín ngưỡng dân gian trong các lễ hội cổ truyền của người Việt, đặc biệt, lễ hội liên quan đến tín ngưỡng dân gian như: tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng vạn vật hữu linh, tín ngưỡng thờ Thành hoàng, tín ngưỡng thờ Tổ tiên, tín ngưỡng thờ Mẫu...

Ý nghĩa và mục đích của tục “Bán khoán con lên chùa”

Bán khoán con cho chùa là một tín ngưỡng dân gian, một hình thức gửi gắm về mặt tâm linh. Có hai hình thức bán khoán con lên chùa: Bán khoán đến hết năm 12 tuổi rồi “chuộc” con ra, hoặc là bán khoán trọn đời. Từ xưa đến nay, nhiều gia đình quan niệm, khi sinh con ra, đứa trẻ hay đau yếu, khóc lóc không phải là do bị bệnh từ thân hoặc những đứa trẻ sinh vào giờ kỵ, ngày phạm (tức ngày mùng 1, 5, 8, 15, 23, 24, 28 và ngày 30 Âm lịch).

Mỹ tục Kỳ Yên của người Nam Bộ

Trải qua mấy trăm năm tồn tại, tục thờ Thần đã trở thành văn hóa tín ngưỡng của người dân Nam Bộ. Trong đó, tục Kỳ Yên là cổ lệ lớn nhất, nơi để người dân phương Nam cầu nguyện một cuộc sống no đủ. Từ tháng Giêng cho đến tháng Tư, khi cứ vào độ trăng tròn tỏa sáng là xóm làng khắp Nam Bộ thay nhau rộn ràng thượng lễ Kỳ Yên. Trẻ em xúng xính áo mới, người lớn tươm tất y phục chỉnh tề, tụ hội về đình làng cùng nhau khai hội.
Top