banner 728x90

Lễ thức trong tang ma của người Việt

15/06/2024 Lượt xem: 3025

Lễ thức trong tang ma được coi là lễ thứ quan trọng bậc nhất để đưa ông bà, cha mẹ vừa mất về gặp tổ tiên và gia nhập vào hàng các vị tổ tiên (những người mới chết được lập bàn thờ riêng, cho tới khi giỗ hết, cải táng sạch sẽ, mới được ghép thờ chung với tổ tiên). Sách Thọ Mai gia lễ đã ghi chép khá chi tiết các quy định của lễ tang. Rất nhiều thứ lễ được quy định trong đám tang: lễ phục hồn, phạn hàm, thành phục, thiên cữu, yết tổ, khiển điện. Sau khi chôn cất, còn các lễ thành phần, phản khốc, sơ ngu, mở cửa mả (sau ba ngày), lễ 49 (hoặc 50) ngày, lễ 100 ngày. Quy định tang phục của con cháu, nghi thức lễ… đều nhằm mục đích biểu lộ đạo hiếu sâu sắc của con người.

Sau lễ tang ma, lễ giỗ là nghi thức rất được chú trọng. Ngay trong truyện cổ tích Tấm Cám quen thuộc với người Việt Nam cũng thấy chi tiết, cô Tấm sau khi đã được làm hoàng hậu, ngày giỗ cha vẫn phải về nhà dự lễ. Trong tâm lý người Việt, ta thấy cả nỗi lo lắng về sự “mất giỗ”.

Có con mà gả chồng xa

Trước là mất giỗ, sau là mất con

Ngày giỗ (kỵ nhật) là ngày kỷ niệm ngày mất của người thân trong gia đình hàng năm. Trong các lễ giỗ, có ba ngày chú ý nhất tiểu tường (giỗ đầu), đại tường (giỗ hết), trừ phục (lễ cởi bỏ đồ tang). Các ngày giỗ thường kỳ trong các năm sau được coi là cát kị (giỗ lành).

Trước lễ tiểu tường, nhiều gia đình còn làm lễ tiên thường (cáo giỗ) nhằm xin phép Thổ công để linh hồn người đã mất trở về gia đình nhận giỗ. Đồ lễ cúng trong giỗ đầu và giỗ hết phải chuẩn bị rất chu đáo. Trong cỗ cúng, cũng như đã cúng suốt 49 ngày sau khi người thân mất, bao giờ cũng phải có bát cơm úp vào một quả trứng luộc. Cách giải thích hiện tượng này có khác nhau: bát cơm úp thể hiện lòng hiếu thảo đầy đặn của con cháu, và quả trứng (sẽ là con gà) là dấu tích thờ mặt trời, hoặc quan niệm quả trứng là dấu hiệu cầu mong sự hồi sinh, trứng là cội nguồn. Cũng có người giải thích: vì bát cơm úp và đôi đũa bông là biểu tượng của âm dương để tạo nên những sự sống mới… vào ngày giỗ, nhiều gia đình làm cỗ cúng rất to, mổ lợn, giết bò linh đình, khá tốn kém. Ngay trong dân gian xưa đã có sự chê trách việc này:

Sống thì chả cho ăn nào

Chết thì cúng giỗ mâm cao cổ đầy

Mâm lễ cúng giỗ

Có một số nguyên nhân của việc làm giỗ to: trước hết, gia chủ mời tổ tiên và người thân mới mất về hưởng lễ, mặt khác là để tiếp đãi khách khứa. Trong số này có cả những người thân tộc vốn con thứ, cháu ngoại đến gửi giỗ (họ thường mang đồ lễ, gạo và tiền đến như hình thức góp giỗ) và cả bạn bè, xóm giềng của gia chủ. Đây cũng là hình thức cảm ơn những người đã giúp đỡ gia đình trong những ngày tang lễ mà do bận rộn họ không đón tiếp được chu đáo (đó là chưa kể tới khía cạnh “trả nợ miệng” ở làng quê). Theo quy định xưa, vào ngày giỗ đầu, trang phục tang lễ mũ gậy, áo xô lại được con cháu mang ra mặc. Khách đến vái lễ trước bàn thờ, gia chủ cũng phải vái trả lễ như trong những ngày tang (khách vái hai lạy, chủ vái trả một lạy, khách vái bốn lạy, chủ vái trả hai lạy…). Khi khách đã vãn, tổ tiên đã hưởng lễ, gia chủ làm lễ và hóa vàng. Đồ mã được gửi cho người chết cũng theo quy định: ở lễ Đại tường đó là “mã biếu” vì người chết phải sử dụng để biếu các ác thần mong tránh sự quấy nhiễu (dân gian quan niệm cõi âm như cõi trần), ở lễ Đại tường và lễ Trừ phục (một ngày tốt được chọn sau lễ Đại tường để đốt bỏ tang phục) đồ mã còn cần nhiều hơn: mọi vật dụng sinh hoạt cho người chết (quần áo, giày dép, xe cộ), thậm chí cả các hình nhân bằng giấy để xuống cõi âm phục vụ cho họ. Sau khi hóa (đốt) những đồ mã này, đổ một chén rượu lên đống tàn vàng để vật mã trở thành vật thật, tiền thật dưới cõi âm. Người ta còn hơ một chiếc đòn gánh, gậy trên ngọn lửa hóa vàng, hoặc dựng một cây mía bên cạnh với lời giải thích “để các cụ gánh vác về”. Tâm thức dân gian thật bình dị và giàu tính thực tiễn.

Ban Nghiên cứu Tôn giáo

 

Tags:

Bài viết khác

Tín ngưỡng thờ Mẫu: Nét đẹp văn hóa dân tộc

Tín ngưỡng thờ Mẫu là một tín ngưỡng dân gian mang sắc thái nguyên thủy và có chiều dài lịch sử hàng ngàn năm của dân tộc ta. Nói về nguồn gốc hình thành, một số nhà nghiên cứu cho rằng, tục thờ Thánh Mẫu có từ thời Tiền sử khi người Việt thờ các thần linh thiên nhiên kết hợp với tín ngưỡng thờ nữ thần rất phát triển trong xã hội mẫu hệ. Qua quá trình tiếp biến văn hóa, tín ngưỡng thờ mẹ thiên nhiên ban đầu đã hòa cùng các tôn giáo khác để trở thành một tín ngưỡng bản địa riêng có của Việt Nam.

Các nghi lễ trong thờ cúng tổ tiên của người Việt

Thờ cúng tổ tiên là một trong những phong tục truyền thống quan trọng trong văn hóa dân tộc Việt Nam. Đây là một cách thể hiện lòng hiếu thảo, tôn kính và nhớ về cội nguồn của con cháu đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Các nghi thức, nghi lễ trong thờ cúng tổ tiên thường được thực hiện trong các dịp đặc biệt như Tết Nguyên Đán, ngày giỗ tổ, lễ cúng ông Công ông Táo, và nhiều dịp quan trọng khác. Dưới đây là một số nghi thức và nghi lễ phổ biến trong thờ cúng tổ tiên:

Văn hóa cúng tiền chủ trong tín ngưỡng dân gian

Trong tín ngưỡng dân gian, cúng tiền chủ là một phong tục phổ biến tại nhiều gia đình, đặc biệt vào các ngày Rằm, Mồng Một, Giỗ Tết hoặc khi có điều gì không ổn trong nhà. Người ta tin rằng tiền chủ là người đã sống và qua đời trước tiên trong ngôi nhà này, và dù thời gian trôi qua, ngôi nhà có thể chuyển từ tay gia chủ này sang gia chủ khác, nhưng tiền chủ vẫn luôn dõi theo và thỉnh thoảng quay về thăm ngôi nhà cũ.

Những nguyên tắc khi bốc bát hương thờ cúng: Quy tắc và ý nghĩa tâm linh

Trong tín ngưỡng thờ cúng của người Việt, bát hương (lư hương) đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Nó không chỉ là một vật phẩm trang trí trên bàn thờ mà còn là nơi để giao tiếp giữa thế giới trần gian và thế giới tâm linh. Tuy nhiên, việc lập bát hương không phải là điều đơn giản, và có những nguyên tắc cần tuân thủ để việc thờ cúng được linh ứng.

Đình làng - thiết chế văn hóa tín ngưỡng

Đình làng có vị trí, vai trò quan trọng trong xã hội Việt Nam thời phong kiến, nhất là vùng đồng bằng Bắc bộ. Đình làng được nhiều nhà nghiên cứu cho rằng ra đời vào thời Lê –Mạc, là một thiết chế văn hóa tín ngưỡng, một biểu tượng của tính cộng đồng, trung tâm văn hóa, hành chính của làng xã truyền thống.

Nhà Lớn Long Sơn và Lễ hội Trùng Cửu: Dấu ấn tín ngưỡng bản địa Nam Bộ

Mỗi năm, vào các ngày 7, 8 và 9 tháng 9 âm lịch, người dân đảo Long Sơn (TP. Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cũ, nay là xã Long Sơn, Tp. Hồ Chí Minh) lại nô nức hướng về Nhà lớn Long Sơn để tham dự Lễ hội Trùng Cửu – một trong những lễ hội truyền thống lớn và giàu ý nghĩa nhân văn bậc nhất của vùng đất biển này.

Tín ngưỡng Giàng Knée – Sợi dây thiêng liêng kết nối cộng đồng người Pa Cô

Đối với người Pa Cô nói riêng và đồng bào các dân tộc thiểu số miền Tây Quảng Trị nói chung, thế giới luôn tồn tại song song hai chiều không gian: trần thế và linh giới. Trong đó, vạn vật – từ con người đến cây cỏ, muông thú – đều có linh hồn và chịu sự chi phối của các thế lực siêu nhiên. Quan niệm này hình thành nên tín ngưỡng vạn vật hữu linh, gắn bó sâu sắc với đời sống văn hóa – tinh thần của cộng đồng.

Quan niệm về Thiên đường và Địa ngục trong tín ngưỡng dân gian của người Tày, Nùng

Trong hệ thống tín ngưỡng dân gian của người Tày và Nùng, tồn tại một vũ trụ quan phân tầng, nơi các lực lượng siêu nhiên được chia thành nhiều loại, cư ngụ tại các không gian khác nhau và có mối quan hệ tác động qua lại với con người. Một trong những biểu hiện đặc trưng là niềm tin vào các loại "phi" (ma, linh hồn), cũng như quan niệm về Thiên đường và Địa ngục (âm phủ).
Top