Sự kế tục thờ cúng tổ tiên theo quyền trưởng nam được quy định lần đầu tiên trong bộ Luật do vua Lê Thánh Tông ban hành năm 1461. Người đàn ông có quyền lấy nhiều vợ nhằm có được con trai nối dõi (bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại). Thế nhưng, người phụ nữ Việt Nam không bị hạ thấp hoặc khinh miệt như phụ nữ phương Bắc, đặc biệt là ở gia đình bình dân.
Các nhà dân tộc họ đã tìm ra những lý do chủ yếu về mặt kinh tế khiến người phụ nữ ở nước ta được tôn trọng hay vị nể. Đó là vị trí của họ trong nền sản xuất nông nghiệp lúa nước, buôn bán nhỏ, làm nghề thủ công và đặc biệt việc gánh vác toàn bộ công việc gia đình thay chồng đi phu, đi lính. Cũng vì thế, trong lĩnh vực tín ngưỡng, luật pháp và phong tục người ta không thể chấp nhận thực tế này. Ở làng xã, đặc biệt ớ trong các gia đình nông dân, nếu không có con trai, con gái được quyền thừa tự. Người con gái trưởng càng được hưởng phần hương hỏa để thờ cúng tổ tiên (điều 388-400 bộ Luật Hồng Đức). Việc cho con gái thừa tự chắc chắn cũng khá phổ biến nên mới có đoạn viết mang tính chất ca thán sau đây của nhà nho Phạm Đình Hổ ở thế kỷ XVIII: “Nước ta có cái lệ người nào không có con trai thì cho con gái ăn thừa tự. Không biết cái lệ ấy có từ thời nào. ôi! Nội ngoại đã chia ra hai họ, không lẽ lại hợp cả thân sơ mà cúng tế, họp tế nội ngoại như thế thì loạn mất luân thưởng… (Việc ấy là) bắt ép quỷ thần hàm hưởng theo về một dòng giống họ khác, kẻ nhân nhân, người quân tử nghe thấy chuyện ấy ai chẳng đau lòng. Bởi vậy, cổ nhân phải chăm lo về sự nối dõi, chi trưởng không có con nối dõi thì cho chi thứ kế tự, chứ không để cho con gái kế tự”!. Quan niệm hà khắc, hạn hẹp này có lẽ không được dân gian chấp nhận, nên trong ca dao ta vẫn bắt gặp những câu ghi lại việc thờ chung cha mẹ như.
Phụ mẫu em cũng như phụ mẫu chàng Hai bên phụ mẩu tạc bốn chữ vàng thờ chung Hay chấp nhận cho con rể thờ cúng Phụ mẫu em không có con trai Kiếm nơi rể thảo một mai phụng thờ. Thực ra, việc cho con gái kế tục thờ cúng tổ tiên cũng có nghĩa tương đương với việc nối dõi tông đường. Điều này cũng đã được chính thức công nhận lần đầu tiên vào thời Thiệu Bình (1434-1440) của Lê Thái Tông và được khẳng định lại bởi vua Thánh Tông (1460-1497) và Chiêu Tông (1516 1527).
Đạo giáo là tôn giáo được truyền vào nước ta thời Bắc thuộc. Theo các tài liệu lịch sử, các viên quan cai trị người Hán ở nước ta như Sĩ Nhiếp, Cao Biền đều là những người rất tin sùng Đạo giáo. “Người Việt Nam lúc bây giờ vừa chịu ảnh hưởng của Đạo giáo phù thủy, vừa chịu ảnh hưởng của Đạo giáo thần tiên, Chịu ảnh hưởng của Đạo giáo phù thủy vì nó phò hợp với tín ngưỡng dân gian và nó bổ sung những tín điều cần biết mà tín ngưỡng dân gian không có… Tin theo Đạo giáo thần tiên vì người Việt vốn cỏ tinh thần lăng mạn, muốn có cuộc đòi dài lâu, muốn có cuộc sống tốt đẹp”. Trong các nghi thức thờ cúng tổ tiên, người ta còn thấy rỏ những yếu tố Đạo giáo, thí dụ đồ cúng lễ (rượu, vàng mã…), lễ gọi hồn người chết, hoặc ngay trong những dòng chữ ghi trên bức trướng viếng tang, “Bồng lai tiên cảnh". Như vậy, các nghi thức được mô phỏng mang màu sắc Đạo giáo đã làm cho thờ cúng tổ tiên có tính chất thiêng liêng, huyền bí hơn.
Ban Nghiên cứu Tôn giáo