banner 728x90

Tứ phủ Thánh Hoàng trong tín ngưỡng thờ Mẫu

28/09/2024 Lượt xem: 3074

Tứ phủ Quan Hoàng hay Tứ phủ Thánh Hoàng là các Ông Hoàng trong tín ngưỡng thờ Mẫu còn được dân gian gọi là Thập vị Ông Hoàng mà ta hay thấy tọa dưới hàng Chầu Bà và Ngũ Vị Tôn Quan trên ban thờ Tứ phủ. Đây là các vị Thánh nam thuộc về bốn phủ: Thiên, Điạ, Thoải và Nhạc. Huyền tích về sự xuất hiện của họ thường có liên hệ mật thiết với các nhân vật lịch sử, danh tướng có công đánh dẹp giặc hay những người khai sáng, mở mang cho đất nước, địa phương nơi họ hiển linh.

Bàn thờ Tứ phủ trong tín ngưỡng thờ Mẫu 

Trong hệ thống thần điện của tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ Phủ, ở hàng Tứ phủ Thánh Hoàng, ta thường thấy có đại diện là Ông Hoàng Bơ, ông Hoàng Bảy, Ông Hoàng Mười. Các Ông Hoàng này thường được thờ ở ban công đồng hoặc ban riêng trong trang phục với màu sắc khác nhau, tượng trưng cho từng phủ. Các Thánh Hoàng thường đảm nhiệm chức năng thay quyền Vua Cha, Thánh Mẫu để ban tài, tiếp lộc, ban công, ban quyền, phù trợ việc học hành, thi cử cho người dân. Đôi khi, các ngài cũng chấm lính, bắt đồng hoặc thậm chí ứng đồng xem bói.

Các Ông Hoàng thường được gọi tên theo thứ tự từ Ông Hoàng Cả đến Ông Hoàng Mười.

Ông Hoàng Cả còn gọi là Ông Hoàng Quận, là con của Vua Cha Bát Hải Động Đình, có nhiệm vụ coi giữ sổ sách trên thiên đình.
Ông thường rong chơi khắp chốn bồng lai, tiên cảnh. Khi dạo chơi trên thượng giới, Ông thường cưỡi con Xích Long, khi dạo chơi trên mặt nước Ông Hoàng cưỡi rắn Tam đầu Cửu vĩ. Ông thường phù hộ cho người làm ăn buôn bán hoặc kẻ học hành khoa cử.
Ông Hoàng Cả không giáng trần nên không có thần tích về các hiện thân của Ông nên hầu như không có đền thờ chính. Hiện nay, Ông được phối thờ một ban riêng có tên là ban Quan Hoàng Quận ở đền Trung Suối Mỡ (Bắc Giang).

Quan Hoàng Đôi là con Vua cha Bát Hải. Hiện thân của Ông là Tướng quân Nguyễn Hoàng. Ông theo lệnh vua cha, giáng sinh lên cõi trần gian, làm con trai thứ hai nhà họ Nguyễn, sau đó ông trở thành danh tướng, có công giúp nhà Lê trong công cuộc “Phù Lê Dẹp Mạc”.  Ngài là một thánh quan vô cùng linh thiêng không kém Quan Hoàng Bảy hay Quan Hoàng Mười. Đặc biệt, đến đền Ngài cầu danh, cầu lộc, cầu thi cử rất linh nghiệm. Đây là điều còn ít người biết đến.

Quan Hoàng Đôi có 2 đền chính tại: Đền Quan Hoàng Triệu tại Thanh Hóa (Gắn với nơi sinh và nơi được vua Lê phong đất), Đền Hoàng tại Chèm - Hà Nội (gắn với nơi đóng quân của Ngài khi ra bắc giúp vua Lê diệt nhà Mạc. Ngoài ra, Ngài còn được phối thờ tại Ban Tứ Phủ Thánh Hoàng tại một số đền phủ khác.

Ông Hoàng Bơ hay chính là Ông Hoàng Ba (“Bơ” là cách đọc chệch đi của “Ba”) là vị Thánh Hoàng thuộc Thoải phủ. Tương truyền, Ông thông thuộc Phật pháp, thơ phú và từng hiển linh giáng trần ban phúc cho dân, ban lộc cho người buôn bán, kẻ học hành đỗ đạt. Trong thần điện và trong nghi lễ hầu đồng của Tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ, Ông ngự màu áo trắng của Thoải cung. Ngày tiệc của ông là vào 13 tháng 6 và 7 tháng 3 âm lịch hàng năm.

Quan Hoàng Tư là con của Đức Vua Cha Động Đình. Trong Tứ Phủ, ngài cai quản thủy cung. Ngài không giáng trần nên không có đền thờ. Do không giáng trần nên cũng không có thần tích về Ngài. Tuy nhiên, cũng có người cho rằng, hiện thân của Ngài chính là Tướng Quân Nguyễn Hữu Cầu, còn gọi là Quận He. Đền thờ chính của Tướng quân Nguyễn Hữu Cầu tại thôn Cửu Điện, Nhân Hòa, Vĩnh Bảo, Hải Phòng.

Ông Hoàng Năm không giáng trần nên không có đến thờ riêng và không có thần tích. Ngài có nhiệm vụ gì trên thiên cung cũng không ai được rõ và cũng không ai biết Ngài có thể phù hộ cho dương gian được những điều gì. Tuy nhiên, cũng có tài liệu cho rằng Ngài có giáng trần và hiện thân của Ngài chính là Tướng quân Hoàng Công Chất - một lãnh tụ nông dân kiệt xuất, dựng cờ khởi nghĩa chống lại triều đình Lê Trịnh cứu dân nghèo vì nghĩa lớn “Bảo Quốc an dân” diệt cường hào ác bá, lấy của giàu chia cho dân nghèo, với hoài bão xoá bỏ bất công, lập lại kỷ cương, phục hưng đất nước thống nhất giang sơn, thái bình muôn thủa. Hiện nay, thành Bản Phủ tại thành phố Điện Biên là nơi thờ chính của Hoàng Công Chất.

Cũng như Quan Hoàng Tư, Quan Hoàng Năm thì Quan Hoàng Sáu không giáng trần nên không có đền thờ chính và tất nhiên, Quan Hoàng Sáu không có thần tích. Tuy nhiên, cũng có người phân vân tướng quân Hoàng Lục có phải là hiện thân của Quan Hoàng Sáu hay không, bởi chữ Lục là Sáu nên làm người ta liên tưởng đến Hoàng Lục chính là Quan Hoàng Sáu. Tướng quân Hoàng Lục - người có công lao to lớn trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống, giữ vững biên cương phía Bắc dưới triều Lý, được nhà Lý phong “An Biên tướng quân”. Đền thờ của Hoàng Lục hiện nay tọa lạc trên ngọn đồi Đoỏng Lình (linh thiêng) thuộc làng Chi Choi, xã Đình Phong (Trùng Khánh) - Cao Bằng.

Ông Hoàng Bảy còn được gọi là Ông Hoàng Bảy Bảo Hà là vị Thánh Hoàng thuộc Nhạc phủ. Các huyền tích về Ông gắn liền với nơi thờ Ông là đền Bảo Hà, Lào Cai. Tương truyền, tên húy của Ông là Nguyễn Hoàng Bảy, là vị quan triều đình trấn giữ vùng Lào Cai, Yên Bái dưới thời vua Lê. Bằng tài thao lược, Ông đã có công dẹp giặc, hộ quốc, an dân, sau này cũng vì dân mà hy sinh. Sau khi Ông mất lại hiển linh phù giúp nước nhac, được các triều đình phong kiến ban sắc phong Thượng đẳng thần, phong danh hiệu “Trấn An Hiển Liệt”, “Thần Vệ Quốc”. Trong điện thần và nghi lễ hầu đồng của Tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ, Ông Hoàng Bảy ngự áo màu lam hay tím chàm, cũng có khi là màu hồng/đỏ. Ngày tiệc Ông là vào 17 tháng 7 âm lịch hàng năm.

Ông Hoàng Bát tương truyền vốn là danh tướng Nùng Trí Cao trong lịch sử, quê Quảng Nguyên (Cao Bằng ngày nay). Ông có công đánh giặc Tống xâm lược, lưu danh sử sách, được nhân dân ghi nhớ công ơn và lập đền thờ tự. Sau này, Ông được triều đình phong kiến sắc phong Thượng Đẳng Đại Vương. Trong thần điện và nghi lễ hầu đồng của Tín ngưỡng Thờ Mẫu Tứ phủ, Ông Hoàng Bát ngự áo màu vàng. Tuy nhiên, ông rất ít giáng đồng. Đền thờ chính của Ông nằm ở đền Kỳ Sầm, xã Vinh Quang, Hòa An, Cao Bằng. Ngày tiệc Ông là vào 10 tháng Giêng âm lịch hàng năm.

Trong Tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ, khi nói tới Ông Hoàng Chín, người ta lập tức nhớ ngay tới Ông Chín Cờn Môn. Nơi chính thờ của Ông nằm ở đền Cờn, xã Quỳnh Phương, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An. Sau khi mất, Ông hiển linh phù trợ cho dân, được nhân dân thờ phụng. Trong nghi lễ hầu đồng của Tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ, ông Chín Cờn Môn thường ngự áo the khăn xếp màu đen, hoặc the hồng khăn xếp đỏ.

Ông Hoàng Mười hay Ông Hoàng Mười Nghệ An là vị Thánh Hoàng nổi danh tài hoa, sang trọng, văn võ song toàn. Huyền tích về Ông trong dân gian rất nhiều. Tương truyền rằng, Ông quê ở Nghệ An, là người có nhiều công lao với đất nước và nhân dân. Trong thần điện và nghi lễ hầu đồng của Tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ, Ông Hoàng Mười ngự áo màu vàng. Ngày tiệc Ông là 10 tháng 10 âm lịch hàng năm. Vào ngày này, thập phương thường lễ bái cầu tài lộc, công danh, khoa cử.

Ban Nghiên cứu VHTN phía Nam

 

Tags:

Bài viết khác

Nhạc cụ truyền thống trong hát Chầu Văn

Hát Chầu văn hay còn được gọi là hát văn hay hát hầu đồng là một loại hình nghệ thuật ca hát cổ truyền và một phần tín ngưỡng thờ Mẫu của văn hóa Việt Nam. Đây là hình thức lễ nhạc gắn liền với nghi thức hầu đồng của tín ngưỡng Tứ phủ (tín ngưỡng thờ Mẫu) và tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần (Trần Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuần), một tín ngưỡng dân gian Việt Nam.

Nét văn hóa tâm linh trong kiến trúc nhà thờ họ

Kiến trúc nhà thờ họ là biểu tượng vật chất đậm nét văn hóa phi vật thể của các tộc họ ở Việt Nam. Đây là nơi lưu giữ giá trị, tổ chức, quan hệ, và thành tựu của mỗi dòng tộc qua nhiều thế hệ. Theo truyền thống, nhà thờ họ thường được xây dựng theo cấu trúc đơn giản nhưng hài hòa, mang đậm nét riêng của văn hóa dân gian.

Vai trò và ý nghĩa của nhà thờ họ tại Việt Nam

Nhà thờ tổ hay từ đường là một ngôi nhà dành riêng cho việc thờ cúng tổ tiên của một dòng họ hay từng chi họ tính theo phụ hệ (dòng của cha). Nhà thờ họ phổ biến trong văn hóa người Việt tại khu đồng bằng và trung du Bắc Bộ và Trung Bộ.

Tứ quý trong tranh dân gian Đông Hồ

Tranh Tứ quý thuộc loại tứ bình (bốn bức) khổ lớn, vẽ cảnh tứ thời: Xuân, hạ, thu, đông. Mỗi mùa có một loài cây, loài hoa đặc trưng. Mùa xuân: hoa mai, hoa lan, hoa đào. Mùa hạ: hoa sen, hoa hồng, hoa lựu. Mùa thu: hoa cúc, hoa phù dung. Mùa đông: cây trúc, cây thông (tùng).

Cỗ và mâm cỗ truyền thống của người Việt

Mâm cỗ ở mỗi vùng quê Việt Nam có hương vị riêng nhưng bao giờ cũng vậy, mỗi mâm có 4 hoặc 6 người. Thông thường người ta kiêng ngồi 5 người, ở mâm cỗ có ít nhất hai người thân nhau, cũng có khi 3 cặp đều thân nhau thành một cỗ. Người nhà chủ tế nhị mời những người ăn ý với nhau vào một cỗ, sàn sàn lứa tuổi với nhau vào cùng mâm. Những người có tửu lượng mạnh hoặc nhẹ vào một cỗ, những người bằng vai phải lứa với nhau vào một cỗ. Đàn ông vào cỗ với nhau, còn đàn bà ngồi với đàn bà.

Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ Việt Nam

Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều mang trong mình những nét văn hóa riêng. Văn hóa là cái gốc cho sự phát triển, phồn thịnh của một đất nước. Việt Nam là một dân tộc mang một nền văn hóa đậm đà bản sắc, đa dạng và phong phú. Tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam từ lâu đã đóng vai trò quan trọng đối với người dân Việt, văn hóa tín ngưỡng có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống xã hội và tâm thức người dân.

Tín ngưỡng dân gian trong lễ hội cổ truyền ở Việt Nam

Tín ngưỡng dân gian đóng vai trò quan trọng trong các lễ hội cổ truyền của Việt Nam, thể hiện bản sắc văn hóa, tâm linh và lòng tôn kính đối với các thế lực siêu nhiên, Tổ tiên, thần thánh. Bài viết tìm hiểu một số đặc điểm nổi bật về tín ngưỡng dân gian trong các lễ hội cổ truyền của người Việt, đặc biệt, lễ hội liên quan đến tín ngưỡng dân gian như: tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng vạn vật hữu linh, tín ngưỡng thờ Thành hoàng, tín ngưỡng thờ Tổ tiên, tín ngưỡng thờ Mẫu...

Ý nghĩa và mục đích của tục “Bán khoán con lên chùa”

Bán khoán con cho chùa là một tín ngưỡng dân gian, một hình thức gửi gắm về mặt tâm linh. Có hai hình thức bán khoán con lên chùa: Bán khoán đến hết năm 12 tuổi rồi “chuộc” con ra, hoặc là bán khoán trọn đời. Từ xưa đến nay, nhiều gia đình quan niệm, khi sinh con ra, đứa trẻ hay đau yếu, khóc lóc không phải là do bị bệnh từ thân hoặc những đứa trẻ sinh vào giờ kỵ, ngày phạm (tức ngày mùng 1, 5, 8, 15, 23, 24, 28 và ngày 30 Âm lịch).
Top