
Tôi xa mái trường tiểu học, xa thầy cô giáo cũ để vào trường chuyên thành phố mang theo hình ảnh bà Còng và hương vị của những gói ô mai.
Nhà bà Còng là một túp lều lụp xụp, nằm ngay sát cổng trường. Bà già yếu, gầy guộc mà vẫn phải bán quà vặt kiếm sống vì không có con.
Ba năm về trước, một lần tan học về, Ánh (bạn cùng lớp) rủ tôi vào nhà bà Còng mua ô mai.
- Bà bán cho cháu 400 đồng ô mai – Ánh nói và đưa cho bà Còng tờ giấy bạc 1.000 đồng.
Bà sờ sờ tờ giấy bạc, đút vào ngăn kéo, rồi lấy ra 1.600 đồng đưa cho Ánh và gói ô mai. Cầm tiền, Ánh vội kéo tôi đi thật nhanh.
- Sao bạn lại làm thế (?!). Tôi thắc mắc.
Ánh không trả lời, lảng sang chuyện khác. Những ngày sau đó, tôi không thấy Ánh mua ô mai của bà Còng. Chuyện ấy cũng dần lãng quên.
Cuối năm học, nhà trường phát động thi đua: “Uống nước nhớ nguồn”. Lớp tôi tổ chức đi thăm các gia đình thương binh liệt sĩ. Nhà đầu tiên lớp tôi đến không ngờ lại là nhà bà Còng. Thay mặt lớp, cô giáo chủ nhiệm thắp hương trên bàn thờ chồng bà. Chúng tôi ngước nhìn lên bàn thờ, ảnh một chiến sĩ trẻ măng, mặc áo trấn thủ, mờ ảo trong khói hương nghi ngút. Mắt bà Còng nhòe đi. Giọng bà nghẹn lại: "Ông ấy đã hy sinh trong trận Điện Biên Phủ năm xưa. Cả đời bà chỉ có một ước nguyện đi thăm mộ ông ấy một lần, nhưng bà già yếu rồi, lại không có tiền để đi”.
Bỗng tôi phát hiện thấy Ánh móc trong túi ra 1.000 đồng, rón rén nhét vào hộp đựng trầu cau của bà. Sau hôm đó, tôi không biết bà Còng có nhận được tờ 1.000 đồng của nó không, nhưng ước nguyện của bà thì tôi không bao giờ quên được. Tôi có ý định sau này lớn lên, có tiền, tôi sẽ biếu bà để bà đi Điện Biên.
Chương trình học ở trường chuyên ngày càng khó, tôi phải gồng mình với các môn học và những bài kiểm tra liên miên của thầy cô nên hình ảnh bà Còng dần dần bị quên lãng. Kết thúc năm học, tôi đạt danh hiệu “học sinh giỏi” nên bố tôi thưởng cho tôi một chuyến đi “nghỉ mát”.
Tôi reo lên sung sướng: Bố cho con đi Sầm Sơn hay Đồ Sơn hả bố?
Bố mỉm cười: “Bí mật”
Tôi đòi mẹ mua quần áo tắm, nhưng bố bảo: “Không cần”.
Chiếc xe con cũ rích của cơ quan bố vất vả lắm mới vượt qua được những đoạn đèo dốc núi hiểm trở. Đến nơi, tóc người nào cũng bạc đi vì bụi đất. Nóng kinh khủng! Mồ hôi ướt đẫm áo mọi người. Xuống xe, bố nói: “Điện Biên” đấy con ạ! Nghỉ mát ở đây thật tuyệt vời. Tôi ngạc nhiên vì chưa từng nghe ai nói đi nghỉ mát ở Điện Biên. Thì ra bố tôi kết hợp đi công tác, nên cho tôi đi theo.
Tôi ở một mình trong căn nhà lá ven suối, buồn nẫu ruột. Chợt nhớ đến bà Còng, tôi thấy vui vui, chuyến đi trở nên ý nghĩa. Ngày cuối cùng, tôi xin bố được đi thăm nghĩa trang Điện Biên. Đáng tiếc tôi không hỏi tên chồng hôm ấy. Tôi và bố cùng các chú trong đoàn lần lượt đi thắp cho mỗi ngôi mộ một nén nhang và tôi hy vọng chồng bà cũng nằm trong số những nấm mộ đó.

Sau chuyến đi ấy, tôi tìm đến nhà bà Còng để kể lại việc đó cho bà nghe. Túp lều của bà vẫn còn nguyên, cửa khóa. Hàng xóm nói lại là bà mất hồi cuối năm ngoái sau đợt nhà nước phong tặng danh hiệu: “Mẹ Việt Nam Anh hùng”.
Tôi thấy cay cay nơi khóe mắt. Tôi tiến lại gần túp lều của bà nói nhỏ: “Bà ơi, thế là ba năm đã trôi qua. Cháu vẫn nhớ lời bà và đã thực hiện được một phần ước nguyện thay bà. Sao bà không đợi cháu đến ngày hôm nay hả bà ?”
Truyện thiếu nhi của tác giả Đào Thu Hương
(Đăng lần đầu trên tạp chí Ước Mơ Xanh - NXB.TN năm 1996)