banner 728x90

Tranh thờ của các dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc

11/06/2024 Lượt xem: 2954

Mỗi dân tộc lại có một dòng tranh thờ mang đặc thù khác nhau từ nét vẽ, màu sắc cho đến số lượng tranh trong mỗi bộ.

Tranh thờ của các dân tộc thiểu số ở vùng miền núi phía Bắc hầu hết là tranh tôn giáo, gắn với tín ngưỡng đạo Phật hay đạo Lão, song tranh thờ vẫn mang rõ dấu ấn nghệ thuật của mỗi dân tộc, hình thành từ cội nguồn văn hóa và phong tục tập quán riêng. Mỗi dân tộc lại có một dòng tranh thờ mang đặc thù khác nhau từ nét vẽ, màu sắc cho đến số lượng tranh trong mỗi bộ.

Ở khu vực miền núi phía Bắc có những dân tộc như Tày, Nùng, Dao, Cao Lan, Sán Dìu đều có tập tục sử dụng tranh thờ trong các việc cúng lễ, ma chay. Đặc biệt, Tày và Dao là hai dân tộc đang sở hữu một số lượng lớn các loại tranh thờ. Họa sĩ Nguyễn Mạnh Đức cho biết: Đó là những dân tộc có tục lệ có tranh thờ miền núi để trông coi linh hồn người chết và khuyên giải con người nên sống như nào để khi chết sớm được siêu thoát. Trong bộ tranh thời chia thành hai loại là bên tạo và bên thầy. Bên thầy là phần hướng dạy dỗ, giảng dạy cách sống, hướng con người tới cuộc sống cao đẹp hơn. Còn bên tạo là dòng tranh thờ răn đe con người nếu sống trên trần thế mà độc ác thì khi chết sẽ chịu nhiều hình phạt khắc nghiệt.

Công tào Thiên phủ, Địa phủ, tranh thờ dân tộc Dao (Sưu tập Phạm Đức Sĩ)

Tranh thờ miền núi có mặt trong các lễ tang, biểu thị ước nguyện dân gian của gia đình người chết cầu cho vong hồn thân nhân thoát cảnh địa ngục, vươn tới cõi Niết bàn hay cõi Bất tử. Tranh thờ còn lại hiện nay lưu giữ tại Viện Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, phần nhiều là do thợ của tranh Hàng Trống vẽ. Họa sĩ Nguyễn Mạnh Đức cho biết đây là một trong ba nguồn chính thực hiện ra dòng tranh thờ miền núi hiện nay: Tranh thờ miền núi xuất phát từ tranh thờ Hàng Trống. Trước kia cả khu vực làm và cung cấp lên miền núi và đa phần người Tày sử dụng tranh Hàng Trống dưới xuôi với khối lượng khá lớn. Dòng hai là người dân tộc tự vẽ. Họ sử dụng lại những bộ tranh thờ dưới xuôi, dùng chất liệu màu của địa phương như son, lá nhọ nồi, lá cây gia nát làm màu để vẽ. Cách vẽ đó khá phong phú, đa dạng. Dòng tranh này khá hồn nhiên, được sử dụng rộng rãi.

Tổng đàn, tranh thờ dân tộc Dao

Nét vẽ của người thợ vẽ tranh Hàng trống tạo ra được sự uy linh của tranh thờ. Nghệ nhân Lê Đình Nghiên, người duy nhất còn lại của dòng tranh hàng Trống, Hà Nội, cho biết: Chỉ bằng ngọn bút lông, vẽ một nét sổ ngang, tỳ bút hai đầu tòe ra một nét rất là đơn giản, mềm mại như vậy thì tả được nụ cười của hình ảnh đức Phật. Nghệ thuật vờn cản là dùng nửa nước, nửa màu để đặc tả nét mặt hồn hậu của Phật. Điều này chỉ Việt Nam có, không lẫn với một dòng tranh nào khác kể cả tranh của Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản.

Tranh thờ do người dân tộc tự vẽ lấy thì những nét vẽ tự nhiên thể hiện nội tâm cũng như quan niệm của họ, nhìn qua có vẻ vụng về nhưng xem kỹ thì rất có hồn mà không một hoạ sĩ nào làm được. Tuy nhiên người vẽ tranh thờ khi bước vào quá trình sáng tác đều phải tuân thủ một cách nghiêm ngặt. Họa sĩ Nguyễn Mạnh Đức cho biết: Người được vẽ tranh thờ phải là người vẽ tốt. Trước khi bước vào quá trình vẽ tranh thờ thì người đó phải sống cách ly vợ con một thời gian và ở một phòng riêng. Họ cho rằng muốn vẽ được thì phải giữ sự trong sáng, không vướng bận đời sống khác vào. Nó giống như một nghi thức nên những bức tranh thờ đó được vẽ hết sức nghiêm cẩn.

Tranh làng Sình được sử dụng phổ biến ở Huế với mục đích cúng lễ ( (Ảnh: BTC)

Khác với dòng tranh Đông Hồ, Hàng Trống hay Kim Hoàng, trong sinh hoạt thường ngày, người dân tộc ở miền núi phía Bắc không dùng tranh thờ để trang trí nơi ăn ở của mình: Tranh thờ hoàn toàn không mang tính trưng bày trong không gian nhà, mục tiêu sử dụng là cho việc thờ cúng chứ không phải dùng để trang trí. Tranh chỉ được sử dụng khi làng bản, nhà có việc như cúng, lễ, đám ma. Không phải là tranh treo trên tường nhưng lại được ứng dụng rộng rãi, bản chất có đời sống thực được đẩy vào trong tranh nhiều hơn. Những bức tranh thờ còn lưu giữ cả những tàn hương cháy, có vết dầu mỡ, đời sống của người dân tộc quện vào bức tranh. Những tranh treo tường thì rách không sử dụng nữa nhưng tranh thờ thì khác, rách thì được bồi lại, dán lại. Đây là nét đặc trưng và khá riêng biệt của tranh thờ miền núi.

Tranh thờ miền núi phục vụ cho đời sống tâm linh của người dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phái Bắc nên màu sắc thường đậm, trầm, đặc trưng có những màu như đỏ, xanh lam, trắng, vàng. Tranh thờ miền núi được người dân lưu giữ khá cẩn thận. Ngày nay dù cuộc sống phát triển, nhưng dòng tranh thờ của người dân tộc thiểu số ở miền núi phái Bắc vẫn còn nguyên giá trị văn hoá.

Nguồn vov.vn

 

Tags:

Bài viết khác

Đền thờ Mẫu - Chốn linh thiêng ở kỳ quan Đèo Ngang

Nằm trên hành trình thiên lý Bắc – Nam, Đền thờ Mẫu Liễu Hạnh đã trở thành điểm đến tâm linh đầy huyền bí. Qua bao cuộc biến thiên, tích xưa “Công chúa Quỳnh Hoa giáng trần giúp dân bản tránh khỏi nạn dịch, xua đuổi thú dữ, dạy người trồng lúa…” vẫn trường tồn ở vùng đất sơn thủy hữu tình này.

Cúng, khấn, vái và lạy trong nghi lễ thờ cúng

Khi cúng thì chủ gia đình phải bầy đồ lễ cùng với hoa quả theo nguyên tắc “đông bình tây quả,” rượu, và nước. Sau đó, phải đốt đèn (đèn dầu, đèn cầy, hay đèn điện), thắp nhang, đánh chuông, khấn, và cúng trước rồi những người trong gia đình theo thứ tự trên dưới cúng sau. Nhang (hương) đèn để mời và chuông để thỉnh tổ tiên. Khi cúng thì phải chắp tay đưa lên ngang trán khấn. Khấn là lời trình với tổ tiên về ngày cúng liên quan đến tên người quá cố

Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương: Bản sắc văn hóa của người Việt Nam

Việc thờ cúng Hùng Vương đã ăn sâu, lan tỏa rộng khắp, nơi đâu có người Việt sinh sống thì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên - thờ các vua Hùng được người Việt tôn vinh và thờ tự.

Nhạc cụ truyền thống trong hát Chầu Văn

Hát Chầu văn hay còn được gọi là hát văn hay hát hầu đồng là một loại hình nghệ thuật ca hát cổ truyền và một phần tín ngưỡng thờ Mẫu của văn hóa Việt Nam. Đây là hình thức lễ nhạc gắn liền với nghi thức hầu đồng của tín ngưỡng Tứ phủ (tín ngưỡng thờ Mẫu) và tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần (Trần Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuần), một tín ngưỡng dân gian Việt Nam.

Nét văn hóa tâm linh trong kiến trúc nhà thờ họ

Kiến trúc nhà thờ họ là biểu tượng vật chất đậm nét văn hóa phi vật thể của các tộc họ ở Việt Nam. Đây là nơi lưu giữ giá trị, tổ chức, quan hệ, và thành tựu của mỗi dòng tộc qua nhiều thế hệ. Theo truyền thống, nhà thờ họ thường được xây dựng theo cấu trúc đơn giản nhưng hài hòa, mang đậm nét riêng của văn hóa dân gian.

Vai trò và ý nghĩa của nhà thờ họ tại Việt Nam

Nhà thờ tổ hay từ đường là một ngôi nhà dành riêng cho việc thờ cúng tổ tiên của một dòng họ hay từng chi họ tính theo phụ hệ (dòng của cha). Nhà thờ họ phổ biến trong văn hóa người Việt tại khu đồng bằng và trung du Bắc Bộ và Trung Bộ.

Tứ quý trong tranh dân gian Đông Hồ

Tranh Tứ quý thuộc loại tứ bình (bốn bức) khổ lớn, vẽ cảnh tứ thời: Xuân, hạ, thu, đông. Mỗi mùa có một loài cây, loài hoa đặc trưng. Mùa xuân: hoa mai, hoa lan, hoa đào. Mùa hạ: hoa sen, hoa hồng, hoa lựu. Mùa thu: hoa cúc, hoa phù dung. Mùa đông: cây trúc, cây thông (tùng).

Cỗ và mâm cỗ truyền thống của người Việt

Mâm cỗ ở mỗi vùng quê Việt Nam có hương vị riêng nhưng bao giờ cũng vậy, mỗi mâm có 4 hoặc 6 người. Thông thường người ta kiêng ngồi 5 người, ở mâm cỗ có ít nhất hai người thân nhau, cũng có khi 3 cặp đều thân nhau thành một cỗ. Người nhà chủ tế nhị mời những người ăn ý với nhau vào một cỗ, sàn sàn lứa tuổi với nhau vào cùng mâm. Những người có tửu lượng mạnh hoặc nhẹ vào một cỗ, những người bằng vai phải lứa với nhau vào một cỗ. Đàn ông vào cỗ với nhau, còn đàn bà ngồi với đàn bà.
Top