banner 728x90

Tháp bà Ponagar Nha Trang – Mang đậm kiến trúc của người Chăm Pa

03/07/2024 Lượt xem: 3525

Tháp bà Ponagar tọa lạc trên một ngọn đồi nhỏ bên cạnh cửa Sông Cái, cao hơn mặt nước biển khoảng 10 - 12m và khá gần với trung tâm thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hoà. Tháp bà Ponagar Nha Trang là một quần thể gồm nhiều tháp được xây dựng bởi người Chăm Pa cổ. Ngoài ra, tháp bà còn được biết đến với cái tên khác như Yang Po Inư Nagar. Theo tương truyền, tháp được xây dựng từ lâu, từ thời đạo Hindu còn được tôn thờ và quốc vương Chăm Pa còn hưng thịnh và đang xây dựng theo chế độ mẫu hệ. Chính vì vậy, Tháp bà Ponagar Nha Trang được xây dựng dựa vào hình ảnh của nữ vương Po Ina Nagar.

Theo người Chăm Pa cổ, nữ vương Po Ina Nagar là vị thần tạo nên trái đất này, bà được sinh ra từ áng mây và bọt biển, là vị thần mang đến sự bình yên và bảo vệ họ khỏi mọi cơn bão lũ, mang đến mùa màng bội thu và sự sung túc.

Chất liệu chính để xây dựng lên những tòa tháp này là đất nung. Ảnh (nguồn internet)

Tháp bà Ponagar Nha Trang được xây dựng gồm 3 khu vực chính, mỗi khu vực đều có những đặc sắc kiến trúc riêng ấn tượng.

1. Khu vực tháp cổng được xây dựng như hình ảnh một chiếc cổng chào vô cùng hoành tráng, hòa hợp với kiến trúc tổng thể khu Tháp bà Ponagar Nha Trang. Dù không còn nguyên vẹn do trải qua thời gian dài nhưng khu vực này vẫn có dấu tích kiến trúc xưa cũ với những cột trụ, bậc thang làm bằng dá dẫn đến khu tiền đình.

Phần cổng tháp. Ảnh (nguồn internet)

2. Khu tiền đình (Mandapa)

Tổng thể kiến trúc được làm bằng gạch nung, có màu cam nhạt và được chia thành 4 hàng. Trong đó, gồm 12 cột nhỏ bên ngoài bao bọc 10 cột lớn bên trong tạo nên hình bát giác. 

Theo nghiên cứu của những nhà sử học thì đây là nơi để người dân chuẩn bị lễ vật trước khi dâng lên Bà và hành lễ.

3. Khu đền tháp

Hiện tại, nơi đây có 4 tòa tháp còn nguyên vẹn về kiến trúc, còn 2 tòa tháp nữa do thời gian nên hiện tại chỉ còn lại phần nền móng.

Về tổng thể thì cả 4 tòa tháp đều có thiết kế tương tự nhau, chỉ khác nhau về kích thước và độ rộng của không gian bên trong tháp. Mỗi tháp đều có 4 cửa hướng ra 4 phía Đông, Tây, Nam, Bắc, nhưng hiện nay chỉ  có cửa phía Đông là mở để khách du lịch có thể vào trong tham quan. Trong đó, tháp Đông Bắc cao nhất (23m), tiếp đến là tháp Nam (18m), tháp Tây Bắc (9m) và thấp nhất là tháp Đông Nam (7,1m). Các tòa tháp được thiết kế với phong cách cổ xưa, được chạm khắc các hình linh vật, hình ảnh thần linh mang hơi hướng tâm linh sâu sắc. Phía sau lưng các tòa tháp là suối khoáng nóng tháp bà, du khách có thể trải nghiệm dịch vụ tắm nóng, tắm bùn ở đây. Kết cấu tòa tháp được xây dựng khá vững chãi dù đã trải qua rất nhiều sự bài mòn của thời gian.

Ảnh (nguồn internet)

4. Khu bia ký

Những tấm bia tại tháp bà Ponagar Nha Trang có giá trị về văn hóa và lịch sử khá cao. Tổng thể có 4 tấm bia được đựng tại đây, nhưng không phải tất cả đều được dựng khi xây Tháp bà Ponagar Nha Trang, mà mỗi tấm đều gắn với một dấu mốc riêng quan trọng riêng.

Ảnh (nguồn internet)

Trong 4 tấm bia, tấm đầu tiên là tấm được dựng từ lâu nhất do chính người Chăm Pa cổ dựng lên nhưng đến năm 1856 thì được Phan Thanh Giản – một vị quan Thượng thư bộ Lễ dưới triều Nguyễn chuyển nội dung của tấm bia này thành chữ Hán - Nôm.

Còn tấm bia thứ 2 thì được lập năm 1871 bởi 8 vị quan người Khánh Hòa và Bình Thuận để thể hiện tình hữu nghị cả về chính trị lẫn văn hóa của hai tỉnh.

Tấm bia tiếp theo là tấm bia dịch lại câu chuyện về nữ vương Po Ina Nagar đã được dịch sang chữ quốc ngữ, dựng vào năm 1972 và tấm bia cuối cùng, được lập gần đây nhất là năm 2010, giới thiệu về di tích Tháp Bà Ponagar.

Theo TTTT Ninh Binh

 

 

Tags:

Bài viết khác

Đào Cam Mộc – Từ công thần triều Lý đến Thánh Tổ làng Đào Xá

Thái sư Á Vương Đào Cam Mộc, người có công đầu đưa Lý Công Uẩn lên ngôi Thái Tổ nhà Lý (1009), và dời đô từ Hoa Lư về Thành Đại La, lập kinh đô mới, đặt tên là Thăng long (1010), mở đầu một kỷ nguyên văn hiến, cường thịnh của nước Đại Việt, kéo dài suốt 216 năm (1009 – 1225). Thái sư Á Vương Đào Cam Mộc đã có công đức, đưa người từ các vùng đến khai khẩn đất hoang, dựng nhà, đào kênh, mở đường, lập ra làng Đào Xá – xã Hoàng Long – huyện Phú Xuyên – Hà Nội ngày nay.

Thái sư Á Vương Đào Cam Mộc: Đệ nhất khai quốc công thần triều Lý

Trong số những người có công đưa Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế, Thái sư Á Vương Đào Cam Mộc và nhà sư Vạn Hạnh được xếp là Đệ nhất Khai quốc công thần triều đình nhà Lý.

Nước Mắm Phú Quốc – Tinh Hoa Di Sản Văn Hóa Phi Vật Thể Quốc Gia

Nghề làm nước mắm Phú Quốc khởi nguồn từ thế kỷ XIX, khi nghề đánh cá ven biển dần gắn liền với quá trình chế biến nước mắm. Theo một số tài liệu của người Pháp, Phú Quốc đã sớm trở thành trung tâm sản xuất nước mắm lớn của Việt Nam. Đến nay, nghề truyền thống này vẫn tiếp tục được duy trì và phát triển, đóng góp vào đời sống của hàng ngàn cư dân trên đảo.

Mẹ Nam Hải Bạc Liêu – Chốn Thiêng Liêng Giữa Biển Trời Nam Bộ

Bạc Liêu – Không chỉ được biết đến với giai thoại về công tử hào hoa hay những cánh đồng điện gió nối dài đến tận chân trời, Bạc Liêu còn là điểm dừng chân tâm linh của hàng vạn du khách và Phật tử thập phương. Trong đó, Phật Bà Nam Hải – hay còn được người dân thân thương gọi là Mẹ Nam Hải – hiện lên như một biểu tượng thiêng liêng, chốn hành hương linh nghiệm bậc nhất miền Tây Nam Bộ.

Miếu Nổi Phù Châu – Di tích tâm linh độc đáo giữa lòng sông Vàm Thuật

Nằm biệt lập trên cù lao giữa sông Vàm Thuật, Miếu Nổi Phù Châu không chỉ là một địa điểm tín ngưỡng linh thiêng, mà còn là công trình kiến trúc mang đậm dấu ấn văn hóa Việt – Hoa, hiếm có giữa lòng đô thị Sài Gòn hiện đại.

Tượng Chúa Kitô Vua – Biểu tượng tâm linh và điểm đến nổi bật của Vũng Tàu

Nằm trên đỉnh Núi Nhỏ (còn gọi là núi Tao Phùng), phường Vũng Tàu, TP. Hồ Chí Minh, tượng Chúa Kitô Vua từ lâu đã trở thành một trong những công trình tôn giáo quy mô lớn và ấn tượng nhất Việt Nam. Không chỉ là điểm hành hương linh thiêng của giáo dân, nơi đây còn là biểu tượng du lịch nổi tiếng, thu hút hàng triệu lượt khách mỗi năm.

Ché – Hồn cốt của người dân đại ngàn Tây Nguyên

Giữa âm vang rộn rã của cồng chiêng – di sản văn hóa phi vật thể thế giới – những chiếc ché rượu cần lặng lẽ đứng đó, như linh hồn văn hóa của cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên.

Vẽ mắt cho thuyền – Hồn biển trong văn hóa ngư dân Việt

Trong dòng chảy lịch sử dân tộc, nghề chài lưới là một trong ba ngành nghề truyền thống đặc trưng của người Việt, bên cạnh nghề trồng lúa nước và nghề rừng. Cùng với đó, những phương tiện gắn liền với đời sống sông nước như thuyền, ghe, bè, thúng... không chỉ đóng vai trò là công cụ mưu sinh, mà còn là biểu tượng văn hóa, gắn liền với tín ngưỡng dân gian và phong tục truyền đời của cư dân miền biển.
Top