banner 728x90

Tản mạn: Nét đẹp văn hóa Tết Việt Nam

09/01/2025 Lượt xem: 2569

Chẳng biết Tết Nguyên đán có từ bao giờ nhưng hàng ngàn năm nay, khi đất trời từ giá lạnh đổi sang ấm áp, cây cối thay lộc, đào mai, mơ mận… thi nhau bung nụ thì cũng là lúc con người không thể tĩnh tại mà cứ bâng khuâng, rạo rực, đợi chờ. Ba trăm sáu mươi lăm ngày như dồn lại trong mấy ngày cuối cùng của tháng chạp. Bao lo toan sắm sửa cũng chỉ vì “ba ngày Tết”. Bao hò hẹn lứa đôi bầu bạn cũng chờ đến tết. Bao ước mong kỳ vọng cũng gửi cả vào những giờ phút đầu tiên của năm mới. Rồi thăm viếng, đón đưa. Rồi sắp đặt, sửa soạn. Rồi sắm sanh, trang trí. Rồi điện thoại, nhắn tin… Thời gian sao mà chật chội. Năm mới, cái gì cũng phải tinh tươm và mới mẻ. Từ ngôi nhà, con ngõ; từ chiếc áo, tấm quần; từ bàn ghế, ấm chén; giò chả, bánh chưng, dưa hành, thịt mỡ, hương hoa, bánh trái… cứ chộn rộn hẳn lên.

Tết Việt thực ra đã khởi đầu từ cái ngày 23 tháng chạp tiễn ông Táo về trời. Có lẽ vì sinh ra trong một nước sản xuất nông nghiệp, nhà bếp trở thành tâm điểm sự sống và sự sum vầy, nhất là trong những ngày giá lạnh nên người Việt có sự tích về ba ông đầu rau, rồi có tục thờ thần bếp (ông Táo). Xưa thì là một cây hương tưởng nhớ cắm ở góc bếp, nay là bàn thờ nhỏ đủ hương đăng, hoa quả và trầu nước. Nhà nào có điều kiện thì thêm cả cỗ xôi thịt và cỗ áo giấy, tiền vàng làm lễ tiễn ông Táo về trời báo với Ngọc Hoàng về một năm làm ăn và tu nhân tích đức của gia chủ. Để ông Táo về được trời thì phải có con cá chép vượt vũ môn. Trùng hợp với tư tưởng nhà Phật, lại thêm lễ phóng sinh. Chính vì vậy mà những năm gần đây, cứ đến 23 tháng chạp là cá chép được bán rất nhiều ở các chợ. Cái không khí hư hư, thực thực của lễ tiễn ông Táo về trời và chất nhân văn của việc phóng sinh khiến con người ta muốn làm nhiều việc tốt và luôn tin tưởng ở các tập tục. Điều này làm cho tết Việt thêm linh thiêng và đậm đà bản sắc.

Nhưng với người Việt Nam, thời khắc thiêng liêng, hội tụ nhiều tâm tưởng và cảm xúc nhất vẫn là chiều ba mươi, đêm giao thừa và sáng mồng một tết. Đó là khoảng thời gian kết thúc năm cũ, mở ra năm mới, mọi nợ nần phải trả xong, mọi sắp đặt, sắm sửa phải hoàn thành, sẵn sàng đón giờ khắc sang canh và giờ phút đầu tiên tinh khôi của năm mới. Chính vì vậy, người ta mong mọi điều tốt đẹp trong những thời khắc này.

Nhà thơ Nguyễn Công Trứ có mấy câu đối Tết ngộ nghĩnh: “Chiều ba mươi nợ réo tít mù, co cẳng đạp thằng bần ra cửa/ Sáng mồng một, rượu say túy lúy, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà; còn nhà thơ Hồ Xuân Hương thì lại viết: “Tối ba mươi khép cánh càn khôn, ních chặt lại kẻo ma vương đưa quỷ tới/ Sáng mồng một lỏng then tạo hóa, mở toang ra cho thiếu nữ đón xuân vào. Xưa vì đói nghèo nên trẻ con, người lớn đều mong đến hai ngày này để hưởng thụ cả về vật chất và tinh thần: thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ/ Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh. Trẻ con ước ao tấm áo mới, đồng xu lì xì, người già mong có thêm than củi để sưởi khi cái lạnh chưa tan. Và dù ai nghèo khó đến mấy thì chiều ba mươi, nhà nào cũng có cái thủ heo, giò lợn hoặc chí ít là cân thịt mỡ treo trong nhà. Vì thế mới có câu ca dao châm biếm thầy bói khi phán: Số cô chẳng giàu thì nghèo. Chiều ba mươi Tết thịt treo trong nhà.

Ngày nay, đời sống đã giàu có, no đủ, nhiều vật phẩm ngon, đẹp được sắm sửa cho “ba ngày Tết’ nhưng vẫn không thể thiếu được bánh chưng, giò chả, dưa hành, hoa đào, hoa mai, bánh mứt, hương trầm… Và chiều ba mươi, bàn thờ phải được quét dọn, sửa sang, bày biện hương hoa, lễ vật, mâm cúng tinh tươm để mời tổ tiên, ông bà về đón tết đoàn viên với con cháu. Tâm điểm của ngôi nhà lúc ấy là gian thờ. Bao nhiêu trân trọng, thành kính, biết ơn được thể hiện trong từng cử chỉ bày biện lễ vật, trong lời khấn rì rầm và nén hương thắp lên bàn thờ. Tưởng như ông cha về hiện diện chứng kiến cuộc sống của cháu, con. Lời tâm sự, lời nhớ thương và lời hứa cũng được bày tỏ để cháu, con nguôi ngoai nỗi nhớ người xưa. Đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của người Việt Nam đã làm nên mỹ tục thờ cúng tổ tiên, làm cho những khoảnh khắc quý giá của ngày Tết thêm thiêng liêng và rất sâu đậm. Đây cũng chính là bản sắc Việt Nam không thể trộn lẫn với các dân tộc.

Sau lễ cúng trang nghiêm là rộn ràng bữa cơm tất niên trong tình gia đình ấm cúng, đoàn tụ. Người già lấp lánh ánh mắt nhìn con cháu quây quần, trẻ nhỏ đùa vui lăng xăng khoe áo mới, người cha, người mẹ gật đầu hài lòng nhìn con cái trưởng thành. Có thể có đứa chưa giàu, có đứa chưa ngoan, vì vậy, ngày cuối cùng năm cũ, cha mẹ, anh em thêm lời bày vẽ, sẻ chia để mong sang năm mới, mọi người đều có những thay đổi tốt đẹp. Đứa con nào ở xa không về được, lòng mẹ cha đều thấp thỏm. Những cuộc gọi và tin nhắn đã giúp họ bày tỏ tình cảm với nhau. Bao nhiêu người lặn lội, vất vả tàu xe, máy bay cũng chỉ để về kịp cúng tất niên và ăn bữa cơm chiều ba mươi. Người ta hay gọi Tết đoàn viên là vì vậy.

Một nét độc đáo của Tết Việt nữa là dù giàu hay nghèo, xưa hay nay thì tập tục: Mồng một tết cha, mồng hai tết mẹ, mồng ba tết thầy vẫn được duy trì qua nhiều đời, thể hiện phong cách của người Việt, một dân tộc luôn coi trọng đạo hiếu và đạo học. Ngày đầu quý giá và thiêng liêng nhất phải dành cho ông bà, mẹ cha, anh em họ hàng quyến thuộc rồi đến thầy, cô giáo. Đây cũng là nét rất khác với nhiều quốc gia, dân tộc.

Tết Việt - hai tiếng thiêng liêng và ấm áp trong trái tim hàng chục triệu người con, dù ở trong lòng Tổ quốc hay còn sống khắp nơi trên hành tinh trái đất. Đó là tài sản tinh thần của nhiều thế hệ đang được gìn giữ và trao truyền lại cho con cháu mai sau.

 

Đào Hương Lan

 

 

 

Tags:

Bài viết khác

Tản văn: Hương bưởi tháng ba

Đã lâu tôi chưa có dịp về thăm quê. Về để được bước chân rộn rã trên con đường làng, qua cánh cổng làng trầm mặc rêu phong, qua cây đa cổ thụ sừng sững hàng trăm năm tuổi. Về để ùa vào tâm thức mình hương hoa bưởi tinh khiết, nồng nàn…

Truyện ngắn: Ngôi nhà còn mãi trong mơ

Cho đến bây giờ, những giấc mơ vẫn thường đưa tôi về với ngôi nhà cũ của một thời thơ ấu, ngôi nhà nằm ở ngoại ô thành phố. Chớp mắt đã gần 40 năm trôi qua kể từ ngày tôi từ biệt ngôi nhà thân yêu ấy. Tuy tôi cũng có nhiều lần quay về khu nhà cũ, đi ngang qua và nhìn thấy nó từ xa, nhưng không hiểu sao chẳng dám bước lại gần, có lẽ tôi sợ cảm xúc sẽ bóp nghẹt trái tim mình bởi những kỷ niệm dâng trào...

Câu chuyện gia đình: Yêu sắc đẹp

Anh thường nói với chị: “Một bàn tay thô ráp nhưng mượt mà trong lòng người chồng, một làn da sạm nắng nhưng lại mềm mại trong lòng người chồng vì tình yêu với vợ. Mình đã sống với nhau lâu rồi, em đừng bận tâm vì nhan sắc”.

Tản văn: Ký ức tuổi thơ tôi

Cái mùi rơm, mùi rạ thơm tho và lành sạch ít khi làm ta từ chối hay né tránh. Cũng có thể vì trên những cánh đồng rộng, không khí loãng ra trong những chiều gió nên dù có vào chính vụ đốt đồng đi chăng nữa, người đi bên này những bờ ruộng, triền đê hay những con đường làng nương theo bờ bãi vẫn không cảm thấy ngột ngạt vì khói.

Câu chuyện gia đình: Quên đi bệnh tật, ưu phiền

Câu chuyện trên khoang tàu hôm ấy ngẫu nhiên lại trĩu nặng nỗi lo về bệnh tật. 4 hành khách - 4 bệnh nhân mới bước ra từ các bệnh viện khác nhau ở thành phố đầy bụi bặm, xô bồ, lúc mưa lúc nắng. Một đôi vợ chồng già với những căn bệnh của người già xuống ga Quảng Ngãi. Một chị trung niên xuống ga Đà Nẵng mới lặn lội vào tận Sài Gòn chữa bệnh. Và tôi, cô gái trẻ hơn đôi chút nhưng cũng suy nghĩ rất nhiều trong hơn 7 tiếng trên tàu.

Tản văn: Mùa hè xa vắng

Sau chừng ly, tôi nhìn ra hồ. Nghe gió bời bời. Cảm giác xót xa quá đỗi. Những thân sen khô rã rời. Chắc chắn không phải là chống chọi với gió, không phải chống chọi với già nua. Cũng không hẳn là cam chịu.

Phân tích truyện ngắn “Ông tôi” của tác giả Đào Quốc Thịnh

Đề thi: Em hãy phân tích truyện ngắn “Ông tôi” của nhà văn Đào Quốc Thịnh?

Tản văn: “Thằng Bờm có cái quạt mo”

Trước sân nhà tôi có cây cau. Cây không cho bóng mát, trái cau trẻ nhỏ không ăn được... nên mấy chị em không hào hứng với cây cau trước cửa. Có lần, chị tôi đem về cây si, xin mẹ trồng trước ngõ cho mát. Mẹ tôi không chịu, bảo đó là cây cau bà nội trồng.
Top