Quản lý nhà nước với tính chất là một hoạt động quản lý xã hội. Quản lý nhà nước được thực hiện bởi tất cả các cơ quan nhà nước, là hoạt động chấp hành và điều hành có tính tổ chức chặt chẽ, được thực hiện trên cơ sở pháp luật, được bảo đảm thực hiện bởi hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước.
Quản lý di sản văn hóa là một hình thức, một thực hành quản lý các sản phẩm văn hóa, các nguồn lực văn hóa, đúc kết từ thực tiễn bảo vệ, phục hồi, trao truyền. Quản lý di sản văn hóa về mặt truyền thống liên quan đến việc nhận diện, lý giải, bảo vệ những tài sản văn hóa có ý nghĩa, có giá trị đối với cộng đồng, quốc gia, dân tộc. Vấn đề quản lý di sản nhận được sự quan tâm đặc biệt trong bối cảnh hiện nay khi phải đối diện với nguy cơ hủy hoại và làm giảm giá trị di sản văn hóa được bảo vệ và phát huy. Những nguy cơ có thể là việc phát triển đô thị, nông nghiệp phát triển trên diện rộng các hoạt động khai thác, giải phóng mặt bằng, lòng hồ thủy điện, thảm họa chiến tranh, thiên tai, phát triển du lịch không bền vững.
Nhằm quản lý di sản văn hóa, nhiều quốc gia đã ban hành nhiều bộ luật nhấn mạnh vào việc nhận diện và bảo tồn các địa danh, tài sản văn hóa, đặc biệt là nơi ở và tài sản của các cộng đồng, dân tộc, bộ lạc. Ở Mỹ, bộ luật đáng chú ý nhất trong hệ thống luật là Luật bảo vệ lịch sử quốc gia. Còn ở Vương quốc Anh là Kế hoạch hướng dẫn chính sách 16. Các nước khác như Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc đã có những bộ luật về di sản văn hóa như là công cụ pháp lý để kiện toàn và quản lý hiệu quả các di tích lịch sử, các biểu đạt văn hóa, di sản văn hóa phi vật thể nhằm đối diện với phát triển, hiện đại hóa.
Việt Nam là một trong số không nhiều quốc gia ban hành Luật Di sản văn hóa (2001) và điều chỉnh, bổ sung (2009), trong đó dành trọn chương V về “Quản lý Nhà nước về di sản văn hóa”. “Trong Mục 1, tại Điều 54, nội dung quản lý nhà nước về di sản văn hóa bao gồm các công tác chỉ đạo, phối hợp và hỗ trợ cộng đồng thực hiện công tác bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể. Nhà nước chỉ đạo, định hướng các công tác hoạch định, ban hành chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; các hoạt động bảo vệ và và phát huy giá trị di sản văn hóa; nghiên cứu khoa học, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên môn về di sản văn hóa; huy động các nguồn lực để bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; tổ chức khen thưởng; hợp tác quốc tế; thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật.

Ảnh minh họa
Di sản văn hóa phi vật thể thuộc về con người; và chỉ có con người, cộng đồng mới có thể thực hành chúng, duy trì, trao truyền với sự hỗ trợ, định hướng của nhà nước. Do vậy, trước khi có Công ước 2003 ra đời, việc quản lý di sản thường được tiếp cận từ trên xuống, từ Trung ương đến địa phương, nhấn mạnh quản lý hành chính, điều hành của các cơ quan nhà nước. Sự tham gia của cộng đồng, các bên liên quan thực sự được quan tâm khi Công ước 2003 ra đời và trong các diễn đàn, hội nghị quốc tế về di sản văn hóa. Cụ thể, trong Điều 15 của Công ước 2003 chỉ rõ vai trò của cộng đồng trong quản lý di sản. Điều này đã giúp cho nhiều quốc gia thành viên nhìn nhận lại cách thức quản lý theo hệ thống ngành dọc, từ Trung ương đến địa phương, cũng như xem xét lại mối quan hệ giữa quản lý nhà nước với vai trò cộng đồng và chú trọng đến việc phân cấp rõ ràng giữa các ban ngành, các cơ quan.
Quản lý nhà nước về di sản văn hóa phi vật thể không đơn giản chỉ có công tác quản lý hành chính, hoạch định các chiến lược, chính sách, mà còn phải thực thi những chức năng của mình. Cụ thể, nhà nước thực hiện các chức năng chỉ đạo, điều hành, phối hợp, và hỗ trợ cộng đồng về nguồn lực (tài chính, nhân lực, vật lực), về kiểm tra, giám sát… Và vì vậy, ngay chính trong Công ước 2003 đã chỉ ra rõ những chức năng của các quốc gia thành viên trong việc hỗ trợ thực hiện các biện pháp bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể.
Cộng đồng đóng vai trò trong việc đưa ra những quy định và bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể, và phù hợp với những ràng buộc về mặt pháp lý của nhà nước để thực thi các biện pháp bảo vệ thông qua các thể chế nhà nước. Theo Công ước di sản văn hóa phi vật thể, nhà nước giữ vai trò lãnh đạo, định hướng và kiểm soát việc bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể, mặc dù thừa nhận về vai trò cần thiết của cộng đồng. Luật pháp quốc tế về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể khó hòa giải được việc nhấn mạnh vào sự tham gia của cộng đồng và vai trò trung tâm của cộng đồng trong việc bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể với vai trò quản lý tập trung của nhà nước. Và đây cũng là vấn đề được bàn cãi nhiều trong các cuộc họp của các chuyên gia UNESCO, các Trung tâm được thành lập dưới sự bảo trợ của UNESCO và các tổ chức phi chính phủ. Ủy ban Liên chính phủ về Công ước 2003 không thể yêu cầu, hay bắt buộc mỗi quốc gia thành viên trao quyền cho cộng đồng địa phương trong việc bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể mà không có sự can thiệp chính sách của nhà nước và sự lãnh đạo, định hướng của nhà nước. Khi xây dựng luật pháp trong bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể, trách nhiệm của các quốc gia là tôn trọng các nguyên tắc về sự tham gia của cộng đồng, và về mặt pháp lý xác định, trao truyền văn hóa cho cộng đồng như là những người quản lý, thực hành và bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể.
Trên thực tế, nhiều quốc gia trên thế giới, tiêu biểu như Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc, hay các thành viên của Liên minh châu Âu và châu Phi đã nhận thấy tầm quan trọng của các nguồn lực văn hóa và thiết lập những đơn vị quản lý nhà nước từ Trung ương đến địa phương trong lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể. Còn ở Việt Nam, chúng ta có cả một hệ thống quản lý từ các Bộ, ngành Trung ương đến các tỉnh, thành phố, huyện/thị trấn, xã, thôn/bản, có các đơn vị phụ trách và bộ máy điều hành, quản lý văn hóa, trong đó có di sản văn hóa phi vật thể.
Ban Nghiên cứu VHTN phía Nam