banner 728x90

Quản lý nhà nước về di sản văn hóa phi vật thể

01/03/2025 Lượt xem: 2411

Quản lý nhà nước với tính chất là một hoạt động quản lý xã hội. Quản lý nhà nước được thực hiện bởi tất cả các cơ quan nhà nước, là hoạt động chấp hành và điều hành có tính tổ chức chặt chẽ, được thực hiện trên cơ sở pháp luật, được bảo đảm thực hiện bởi hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước.

Quản lý di sản văn hóa là một hình thức, một thực hành quản lý các sản phẩm văn hóa, các nguồn lực văn hóa, đúc kết từ thực tiễn bảo vệ, phục hồi, trao truyền. Quản lý di sản văn hóa về mặt truyền thống liên quan đến việc nhận diện, lý giải, bảo vệ những tài sản văn hóa có ý nghĩa, có giá trị đối với cộng đồng, quốc gia, dân tộc. Vấn đề quản lý di sản nhận được sự quan tâm đặc biệt trong bối cảnh hiện nay khi phải đối diện với nguy cơ hủy hoại và làm giảm giá trị di sản văn hóa được bảo vệ và phát huy. Những nguy cơ có thể là việc phát triển đô thị, nông nghiệp phát triển trên diện rộng các hoạt động khai thác, giải phóng mặt bằng, lòng hồ thủy điện, thảm họa chiến tranh, thiên tai, phát triển du lịch không bền vững.

Nhằm quản lý di sản văn hóa, nhiều quốc gia đã ban hành nhiều bộ luật nhấn mạnh vào việc nhận diện và bảo tồn các địa danh, tài sản văn hóa, đặc biệt là nơi ở và tài sản của các cộng đồng, dân tộc, bộ lạc. Ở Mỹ, bộ luật đáng chú ý nhất trong hệ thống luật là Luật bảo vệ lịch sử quốc gia. Còn ở Vương quốc Anh là Kế hoạch hướng dẫn chính sách 16. Các nước khác như Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc đã có những bộ luật về di sản văn hóa như là công cụ pháp lý để kiện toàn và quản lý hiệu quả các di tích lịch sử, các biểu đạt văn hóa, di sản văn hóa phi vật thể nhằm đối diện với phát triển, hiện đại hóa.

Việt Nam là một trong số không nhiều quốc gia ban hành Luật Di sản văn hóa (2001) và điều chỉnh, bổ sung (2009), trong đó dành trọn chương V về “Quản lý Nhà nước về di sản văn hóa”. “Trong Mục 1, tại Điều 54, nội dung quản lý nhà nước về di sản văn hóa bao gồm các công tác chỉ đạo, phối hợp và hỗ trợ cộng đồng thực hiện công tác bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể. Nhà nước chỉ đạo, định hướng các công tác hoạch định, ban hành chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; các hoạt động bảo vệ và và phát huy giá trị di sản văn hóa; nghiên cứu khoa học, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên môn về di sản văn hóa; huy động các nguồn lực để bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; tổ chức khen thưởng; hợp tác quốc tế; thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật.

Ảnh minh họa 

Di sản văn hóa phi vật thể thuộc về con người; và chỉ có con người, cộng đồng mới có thể thực hành chúng, duy trì, trao truyền với sự hỗ trợ, định hướng của nhà nước. Do vậy, trước khi có Công ước 2003 ra đời, việc quản lý di sản thường được tiếp cận từ trên xuống, từ Trung ương đến địa phương, nhấn mạnh quản lý hành chính, điều hành của các cơ quan nhà nước. Sự tham gia của cộng đồng, các bên liên quan thực sự được quan tâm khi Công ước 2003 ra đời và trong các diễn đàn, hội nghị quốc tế về di sản văn hóa. Cụ thể, trong Điều 15 của Công ước 2003 chỉ rõ vai trò của cộng đồng trong quản lý di sản. Điều này đã giúp cho nhiều quốc gia thành viên nhìn nhận lại cách thức quản lý theo hệ thống ngành dọc, từ Trung ương đến địa phương, cũng như xem xét lại mối quan hệ giữa quản lý nhà nước với vai trò cộng đồng và chú trọng đến việc phân cấp rõ ràng giữa các ban ngành, các cơ quan.

Quản lý nhà nước về di sản văn hóa phi vật thể không đơn giản chỉ có công tác quản lý hành chính, hoạch định các chiến lược, chính sách, mà còn phải thực thi những chức năng của mình. Cụ thể, nhà nước thực hiện các chức năng chỉ đạo, điều hành, phối hợp, và hỗ trợ cộng đồng về nguồn lực (tài chính, nhân lực, vật lực), về kiểm tra, giám sát… Và vì vậy, ngay chính trong Công ước 2003 đã chỉ ra rõ những chức năng của các quốc gia thành viên trong việc hỗ trợ thực hiện các biện pháp bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể.

Cộng đồng đóng vai trò trong việc đưa ra những quy định và bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể, và phù hợp với những ràng buộc về mặt pháp lý của nhà nước để thực thi các biện pháp bảo vệ thông qua các thể chế nhà nước. Theo Công ước di sản văn hóa phi vật thể, nhà nước giữ vai trò lãnh đạo, định hướng và kiểm soát việc bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể, mặc dù thừa nhận về vai trò cần thiết của cộng đồng. Luật pháp quốc tế về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể khó hòa giải được việc nhấn mạnh vào sự tham gia của cộng đồng và vai trò trung tâm của cộng đồng trong việc bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể với vai trò quản lý tập trung của nhà nước. Và đây cũng là vấn đề được bàn cãi nhiều trong các cuộc họp của các chuyên gia UNESCO, các Trung tâm được thành lập dưới sự bảo trợ của UNESCO và các tổ chức phi chính phủ. Ủy ban Liên chính phủ về Công ước 2003 không thể yêu cầu, hay bắt buộc mỗi quốc gia thành viên trao quyền cho cộng đồng địa phương trong việc bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể mà không có sự can thiệp chính sách của nhà nước và sự lãnh đạo, định hướng của nhà nước. Khi xây dựng luật pháp trong bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể, trách nhiệm của các quốc gia là tôn trọng các nguyên tắc về sự tham gia của cộng đồng, và về mặt pháp lý xác định, trao truyền văn hóa cho cộng đồng như là những người quản lý, thực hành và bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể.

Trên thực tế, nhiều quốc gia trên thế giới, tiêu biểu như Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc, hay các thành viên của Liên minh châu Âu và châu Phi đã nhận thấy tầm quan trọng của các nguồn lực văn hóa và thiết lập những đơn vị quản lý nhà nước từ Trung ương đến địa phương trong lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể. Còn ở Việt Nam, chúng ta có cả một hệ thống quản lý từ các Bộ, ngành Trung ương đến các tỉnh, thành phố, huyện/thị trấn, xã, thôn/bản, có các đơn vị phụ trách và bộ máy điều hành, quản lý văn hóa, trong đó có di sản văn hóa phi vật thể.

Ban Nghiên cứu VHTN phía Nam

 

Tags:

Bài viết khác

Những nhạc cụ “thổi hồn” cho Di sản Văn hóa hát Then

Hát Then trong đời sống, văn hoá tín ngưỡng, tâm linh của đồng bào Tày, Nùng, Thái vùng cao phía Bắc được ví là "điệu hát thần tiên", điệu hát của “Trời”. Nghệ thuật diễn xướng dân gian này ẩn chứa và phô diễn những giá trị lịch sử, văn hóa lâu đời. Trong hát Then, đàn Tính và chùm Xóc Nhạc là hai loại nhạc cụ không thể thiếu. Hai loại nhạc cụ này vừa có chức năng giữ nhịp, đệm cho hát, vừa có khả năng diễn tấu linh hoạt, đặc biệt còn được sử dụng như đạo cụ trong những điệu múa Then.

Điều kiện di tích lịch sử văn hóa được xếp loại là di tích quốc gia

Theo quy định tại Điều 29 Luật Di sản văn hóa năm 2001, được sửa đổi bởi khoản 10 Điều 1 Luật Di sản văn hóa sửa đổi năm 2009, việc phân loại di tích lịch sử và văn hóa phải dựa trên những điều kiện về giá trị lịch sử và văn hóa. Các điều kiện này được quy định rõ ràng nhằm xác định và bảo vệ các di tích có giá trị quan trọng đối với quốc gia và dân tộc. Cụ thể, các di tích được phân loại dựa trên bốn điều kiện cơ bản:

Thủ tục xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia

Di tích lịch sử Việt Nam đã được phân thành ba cấp khác nhau, nhằm phản ánh giá trị lịch sử, văn hoá và khoa học của chúng. Đây là một dạng di sản văn hoá vật thể, bao gồm các công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình hoặc địa điểm đó.

Phân cấp, phân quyền trong quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa

Ở Việt Nam, vấn đề phân cấp là một nhiệm vụ chính trị quan trọng của quá trình cải cách nền hành chính nhà nước. Phân cấp quản lý có thể hiểu là vấn đề chuyển giao nhiệm vụ, quyền hạn rõ ràng giữa các cơ quan nhà nước, các bạn ngành Trung ương và địa phương. Theo Từ điển Luật học, phân cấp quản lý được định nghĩa là “Chuyển giao nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý nhà nước cấp trên cho cơ quan quản lý nhà nước cấp dưới thực hiện thường xuyên, lâu dài, ổn định trên cơ sở pháp luật…

Lễ Hội Hoa Ban: Nét đẹp văn hóa vùng núi Tây Bắc Việt Nam

Lễ hội Hoa Ban là một trong những sự kiện văn hóa đặc sắc của Việt Nam, phản ánh sự hòa quyện giữa thiên nhiên và con người, giữa các giá trị truyền thống và sự phát triển hiện đại. Với vẻ đẹp thuần khiết của hoa ban, cùng với những hoạt động văn hóa phong phú, lễ hội Hoa Ban hứa hẹn sẽ tiếp tục là một điểm đến hấp dẫn của du khách trong và ngoài nước.

Mối quan hệ giữa các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể

Sự tập trung vào di sản văn hóa vật thể trong luật pháp và chính sách thường phải trả giá cho những mối quan hệ liên kết và không thể tách rời của các yếu tố vật thể và phi vật thể. Chẳng hạn, đối với việc xây dựng một ngôi nhà và bảo vệ một hiện vật nghi lễ cụ thể thì dễ dàng hơn nhiều so với việc nhận biết và nhận diện một ý tưởng, hay một hệ thống tri thức. Với di sản văn hóa vật thể, một cách dễ dàng hơn để nhận biết cái mất đi, hay sẽ bị hư hỏng.

Công ước về Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể

Theo Công ước 2003, bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể là các biện pháp có mục tiêu đảm bảo khả năng tồn tại của di sản văn hóa phi vật thể, bao gồm việc nhận diện, tư liệu hoá, nghiên cứu, bảo tồn, bảo vệ, phát huy, củng cố, chuyển giao, đặc biệt là thông qua hình thức giáo dục chính thức hoặc phi chính thức cũng như việc phục hồi các phương diện khác nhau của loại hình di sản này (Khoản 3, Điều 2).

Di sản văn hóa phi vật thể là gì?

Di sản văn hóa nói chung bao gồm các sản phẩm và các quá trình của văn hóa được sáng tạo, thực hành, bảo vệ và trao truyền qua các thế hệ. Các di sản được coi như là tài sản văn hóa bao gồm vật thể như nhà cửa, công trình kiến trúc, các tác phẩm nghệ thuật; phi vật thể như nhà cửa, công trình kiến trúc, các tác phẩm nghệ thuật; phi vật thể như bài hát, âm nhạc, ca kịch, kỹ năng và tri thức truyền thống, tri thức về nấu ăn, về thủ công mỹ nghệ, lễ hội, thực hành nghi lễ dân gian…
Top