banner 728x90

Quản lý nhà nước về di sản văn hóa phi vật thể

01/03/2025 Lượt xem: 2582

Quản lý nhà nước với tính chất là một hoạt động quản lý xã hội. Quản lý nhà nước được thực hiện bởi tất cả các cơ quan nhà nước, là hoạt động chấp hành và điều hành có tính tổ chức chặt chẽ, được thực hiện trên cơ sở pháp luật, được bảo đảm thực hiện bởi hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước.

Quản lý di sản văn hóa là một hình thức, một thực hành quản lý các sản phẩm văn hóa, các nguồn lực văn hóa, đúc kết từ thực tiễn bảo vệ, phục hồi, trao truyền. Quản lý di sản văn hóa về mặt truyền thống liên quan đến việc nhận diện, lý giải, bảo vệ những tài sản văn hóa có ý nghĩa, có giá trị đối với cộng đồng, quốc gia, dân tộc. Vấn đề quản lý di sản nhận được sự quan tâm đặc biệt trong bối cảnh hiện nay khi phải đối diện với nguy cơ hủy hoại và làm giảm giá trị di sản văn hóa được bảo vệ và phát huy. Những nguy cơ có thể là việc phát triển đô thị, nông nghiệp phát triển trên diện rộng các hoạt động khai thác, giải phóng mặt bằng, lòng hồ thủy điện, thảm họa chiến tranh, thiên tai, phát triển du lịch không bền vững.

Nhằm quản lý di sản văn hóa, nhiều quốc gia đã ban hành nhiều bộ luật nhấn mạnh vào việc nhận diện và bảo tồn các địa danh, tài sản văn hóa, đặc biệt là nơi ở và tài sản của các cộng đồng, dân tộc, bộ lạc. Ở Mỹ, bộ luật đáng chú ý nhất trong hệ thống luật là Luật bảo vệ lịch sử quốc gia. Còn ở Vương quốc Anh là Kế hoạch hướng dẫn chính sách 16. Các nước khác như Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc đã có những bộ luật về di sản văn hóa như là công cụ pháp lý để kiện toàn và quản lý hiệu quả các di tích lịch sử, các biểu đạt văn hóa, di sản văn hóa phi vật thể nhằm đối diện với phát triển, hiện đại hóa.

Việt Nam là một trong số không nhiều quốc gia ban hành Luật Di sản văn hóa (2001) và điều chỉnh, bổ sung (2009), trong đó dành trọn chương V về “Quản lý Nhà nước về di sản văn hóa”. “Trong Mục 1, tại Điều 54, nội dung quản lý nhà nước về di sản văn hóa bao gồm các công tác chỉ đạo, phối hợp và hỗ trợ cộng đồng thực hiện công tác bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể. Nhà nước chỉ đạo, định hướng các công tác hoạch định, ban hành chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; các hoạt động bảo vệ và và phát huy giá trị di sản văn hóa; nghiên cứu khoa học, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên môn về di sản văn hóa; huy động các nguồn lực để bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; tổ chức khen thưởng; hợp tác quốc tế; thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật.

Ảnh minh họa 

Di sản văn hóa phi vật thể thuộc về con người; và chỉ có con người, cộng đồng mới có thể thực hành chúng, duy trì, trao truyền với sự hỗ trợ, định hướng của nhà nước. Do vậy, trước khi có Công ước 2003 ra đời, việc quản lý di sản thường được tiếp cận từ trên xuống, từ Trung ương đến địa phương, nhấn mạnh quản lý hành chính, điều hành của các cơ quan nhà nước. Sự tham gia của cộng đồng, các bên liên quan thực sự được quan tâm khi Công ước 2003 ra đời và trong các diễn đàn, hội nghị quốc tế về di sản văn hóa. Cụ thể, trong Điều 15 của Công ước 2003 chỉ rõ vai trò của cộng đồng trong quản lý di sản. Điều này đã giúp cho nhiều quốc gia thành viên nhìn nhận lại cách thức quản lý theo hệ thống ngành dọc, từ Trung ương đến địa phương, cũng như xem xét lại mối quan hệ giữa quản lý nhà nước với vai trò cộng đồng và chú trọng đến việc phân cấp rõ ràng giữa các ban ngành, các cơ quan.

Quản lý nhà nước về di sản văn hóa phi vật thể không đơn giản chỉ có công tác quản lý hành chính, hoạch định các chiến lược, chính sách, mà còn phải thực thi những chức năng của mình. Cụ thể, nhà nước thực hiện các chức năng chỉ đạo, điều hành, phối hợp, và hỗ trợ cộng đồng về nguồn lực (tài chính, nhân lực, vật lực), về kiểm tra, giám sát… Và vì vậy, ngay chính trong Công ước 2003 đã chỉ ra rõ những chức năng của các quốc gia thành viên trong việc hỗ trợ thực hiện các biện pháp bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể.

Cộng đồng đóng vai trò trong việc đưa ra những quy định và bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể, và phù hợp với những ràng buộc về mặt pháp lý của nhà nước để thực thi các biện pháp bảo vệ thông qua các thể chế nhà nước. Theo Công ước di sản văn hóa phi vật thể, nhà nước giữ vai trò lãnh đạo, định hướng và kiểm soát việc bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể, mặc dù thừa nhận về vai trò cần thiết của cộng đồng. Luật pháp quốc tế về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể khó hòa giải được việc nhấn mạnh vào sự tham gia của cộng đồng và vai trò trung tâm của cộng đồng trong việc bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể với vai trò quản lý tập trung của nhà nước. Và đây cũng là vấn đề được bàn cãi nhiều trong các cuộc họp của các chuyên gia UNESCO, các Trung tâm được thành lập dưới sự bảo trợ của UNESCO và các tổ chức phi chính phủ. Ủy ban Liên chính phủ về Công ước 2003 không thể yêu cầu, hay bắt buộc mỗi quốc gia thành viên trao quyền cho cộng đồng địa phương trong việc bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể mà không có sự can thiệp chính sách của nhà nước và sự lãnh đạo, định hướng của nhà nước. Khi xây dựng luật pháp trong bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể, trách nhiệm của các quốc gia là tôn trọng các nguyên tắc về sự tham gia của cộng đồng, và về mặt pháp lý xác định, trao truyền văn hóa cho cộng đồng như là những người quản lý, thực hành và bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể.

Trên thực tế, nhiều quốc gia trên thế giới, tiêu biểu như Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc, hay các thành viên của Liên minh châu Âu và châu Phi đã nhận thấy tầm quan trọng của các nguồn lực văn hóa và thiết lập những đơn vị quản lý nhà nước từ Trung ương đến địa phương trong lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể. Còn ở Việt Nam, chúng ta có cả một hệ thống quản lý từ các Bộ, ngành Trung ương đến các tỉnh, thành phố, huyện/thị trấn, xã, thôn/bản, có các đơn vị phụ trách và bộ máy điều hành, quản lý văn hóa, trong đó có di sản văn hóa phi vật thể.

Ban Nghiên cứu VHTN phía Nam

 

Tags:

Bài viết khác

Người mở cõi – Vị khai quốc công thần đất Đồng Nai

Cách đây 327 năm, vào mùa xuân năm 1698, theo lệnh Chúa Nguyễn Phúc Chu, Chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh dẫn binh thuyền xuôi dòng sông Sài Gòn rồi ngược dòng Đồng Nai, đặt chân đến vùng Cù Lao Phố. Với tầm nhìn chiến lược và phẩm chất của một nhà kiến thiết, ông đã nhanh chóng thiết lập dinh Trấn Biên, ổn định trật tự, khai sinh hệ thống hành chính cho vùng đất hoang hóa rộng lớn, mở đầu cho quá trình xác lập chủ quyền của Đàng Trong trên phần đất Nam Bộ ngày nay.

Lăng Văn Sơn: Nét chạm của di sản trong đô thị hiện đại

Giữa nhịp phát triển sôi động của vùng Tây Hà Nội, Lăng Văn Sơn – di tích lịch sử quốc gia tại xã Tân Hội, huyện Đan Phượng – vẫn là biểu tượng văn hóa, điểm tựa tâm linh và niềm tự hào của người dân địa phương. Nơi đây không chỉ gắn với vị tướng Văn Dĩ Thành – người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống quân Minh vào đầu thế kỷ XV – mà còn lưu giữ những giá trị trường tồn của vùng đất Tổng Gối anh hùng.

Hình tượng Dê trong văn hóa thế giới và nghệ thuật truyền thống Việt Nam.

Hình tượng con dê là một biểu tượng phổ biến trong nhiều nền văn hóa trên thế giới, với ý nghĩa đa dạng từ tôn giáo, triết lý đến nghệ thuật và tín ngưỡng dân gian. Tại Việt Nam, con dê không chỉ là động vật quen thuộc trong đời sống nông nghiệp mà còn giữ vị trí biểu tượng trong nghệ thuật tạo hình và kiến trúc truyền thống.

Bảo tàng – Thư viện Bà Rịa - Vũng Tàu: Hành trình đưa di sản văn hoá đến gần hơn với du khách

Không chỉ lưu giữ ký ức, di sản văn hóa còn là nhịp cầu kết nối giữa quá khứ và hiện tại, giữa người dân và quê hương, giữa du khách và những câu chuyện lịch sử tưởng như đã lùi xa. Ở thành phố du lịch biển Vũng Tàu – hành trình ấy đang được tiếp nối sáng tạo và nhân văn qua nỗ lực không ngừng của Bảo tàng – Thư viện tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Ý nghĩa biểu tượng của tượng Phật Bà Quan Âm nghìn tay nghìn mắt - Di sản vô giá của dân tộc

Sự sùng bái Bồ tát Quan Âm có liên quan mật thiết đến sự phát triển của Tịnh độ tông và Mật tông, cụ thể là tư tưởng “Tịnh Mật hợp nhất”. Chính tại thời điểm giao thoa của hai tông này mà sức sáng tạo các hình tượng Bồ tát Quan Âm ngày càng trở nên phong phú, đa dạng.

Áo Nhật Bình: Một di sản văn hóa quý của Cố đô Huế

Áo Nhật bình vốn là loại triều phục dành cho bậc hậu, phi, cung tần và công chúa thời Nguyễn, nay đã trở thành loại trang phục phổ biến của phụ nữ Huế trong dịp hôn lễ và ngày càng được các bạn nữ trẻ Việt Nam yêu thích sử dụng khi đi ngoạn cảnh, check in…

Di tích Lịch sử - Văn hóa là gì? Tiêu chí, phân loại di tích lịch sử văn hóa

Di tích Lịch sử - Văn hóa là công trình xây dựng, địa điểm, hiện vật, di vật, đồ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm có liên quan đến những sự kiện lịch sử, quá trình phát triển văn hoá, xã hội một dân tộc, một đất nước. Di tích lịch sử - văn hoá phải có một trong các tiêu chí sau:

Những nhạc cụ “thổi hồn” cho Di sản Văn hóa hát Then

Hát Then trong đời sống, văn hoá tín ngưỡng, tâm linh của đồng bào Tày, Nùng, Thái vùng cao phía Bắc được ví là "điệu hát thần tiên", điệu hát của “Trời”. Nghệ thuật diễn xướng dân gian này ẩn chứa và phô diễn những giá trị lịch sử, văn hóa lâu đời. Trong hát Then, đàn Tính và chùm Xóc Nhạc là hai loại nhạc cụ không thể thiếu. Hai loại nhạc cụ này vừa có chức năng giữ nhịp, đệm cho hát, vừa có khả năng diễn tấu linh hoạt, đặc biệt còn được sử dụng như đạo cụ trong những điệu múa Then.
Top